Không Như Bạn
Tưởng
DƯƠNG GIA Phỏng Dịch
PHẦN HAI
TÂM THANH TỊNH
Tâm là căn bản, luôn luôn
hiện hữu trong mọi hoàn cảnh. Muốn có chuyện ǵ xảy ra
trong khoảng khắc này th́ phải có tâm hiện diện. Có tâm th́ mới có cái này, tức
là sự việc đang diễn biến bây giờ.
Đây là cốt tủy của
lời Phật dạy: “Vạn
vật đều từ tâm mà ra.
Biết nói và hành động từ một tâm thanh tịnh
là an lạc.” Con người
có làm được chuyện đó không? Thế nào là tâm thanh tịnh?
Bất luận ở hoàn cảnh
nào cũng có tâm thanh tịnh.
Có buồn, giận, vui, hối tiếc th́ tâm thanh tịnh
cũng quét sạch hết mà chẳng giữ lại dấu
vết ǵ. Trong tâm không có ǵ
để ngăn trở cảm xúc nên nó không bị vướng
mắc mà tự do di động rồi phân tán đi.
Có một câu chuyện kể
một thiền sư khi vợ chết đă khóc ṛng. Đệ tử thấy thế rất
đỗi ngạc nhiên. “Thầy
đă giác ngộ sao c̣n khóc?”
Thiền sư đáp hồn
nhiên, “Ta sẽ nhớ bà ấy lắm.”
Thật ra đệ tử
cho rằng thầy của họ không c̣n là người b́nh
thường với những cảm xúc b́nh thường. Nhiều người có ư tưởng
sai lầm rằng một khi giác ngộ rồi th́ không c̣n cảm
xúc mạnh nữa. Nghĩ
như thế chỉ là ảo tưởng. V́ sao giác ngộ rồi th́ không c̣n
t́nh cảm b́nh thường của con người nữa?
Với tâm thanh tịnh, t́nh
cảm con người không thay đổi. Có làm ǵ với những t́nh cảm
đó không mới là đáng kể.
Đức Phật cũng
đă có nói, “Tất cả đều từ tâm. Nói và hành động từ tâm
động loạn là phiền năo.”
Như thế nghĩa là sao?
Tâm động loạn vỡ
vụn, không thuần nhất nên nh́n mọi sự việc
qua những cặp đối đăi: người và ta, cái này và cái
khác. Đó là tâm b́nh thường
của con người. Tư
tưởng và t́nh cảm cũng phát hiện trong tâm vọng
động như trong tâm b́nh thường. Nhưng thay v́ để chúng sinh
ra rồi tự hủy diệt, người ta bám giữ lấy
chúng, tạo dựng nhiều cơ cấu chung quanh rồi
đồng hóa với chúng và đem chúng ra mà trưng bầy. Nói một cách khác, tâm động
loạn tự tách rời ra khỏi cái toàn bộ mà lập
riêng một bản ngă rồi cứ thế mà măi vướng
mắc trong tham, sân, si. Đức
Phật gọi tâm đó là tâm phiền năo.
Thiền là để t́m hiểu
tâm động loạn từ đâu mà có, để nh́n thấy
trong từng khoảng khắc một sự vật diễn
tiến ra sao mà không nắm giữ, để thấy rơ rằng
muốn điều khiển t́nh thế th́ chỉ tự tạo
đau khổ. Cái thấy biết
đó là sự thể hiện của tâm thanh tịnh.
Bao giờ cũng chỉ có
lúc này, cũng chỉ có những sự việc đang xảy
ra trong lúc này. Thiền là có ư thức
về những sự việc đang diễn tiến trong
tâm bây giờ.
Trong phiền năo, bất luận
loại nào – sợ hăi, giận hờn, cô đơn, buồn
bă, phiền muộn – đều có níu kéo. Có nh́n thấy níu kéo th́ mới
có thể buông bỏ.
Thiền là như thế. Lúc ngồi thiền, nhiều
tư tưởng lúc th́ ghê rợn lúc th́ kỳ diệu cứ
đến quấy nhiễu.
Thông thường người học thiền liền
bám theo, tạo thành những thế giới riêng trong
tâm. Đây là tâm động loạn
mà Đức Phật đă nói đến. Thiền chỉ là để nh́n
thấy thói quen này của con người.
Một sai lầm khác của tâm động loạn là
có ư tưởng phải buông bỏ, cứ như buông bỏ
là một hành động có chủ ư. Nhưng không phải. Buông bỏ là một hành động
tự nhiên như đi ngủ.
Con người u mê nên cố t́nh buông bỏ những
tư tưởng, cố t́nh điều khiển quá tŕnh
buông bỏ. Không thể
được. Không thể tự
ép ḿnh rơi vào giấc ngủ hay tự ép ḿnh thức giấc.
Chỉ cần thấy là buông bỏ
được. Thật vậy,
thấy đă là buông bỏ, là không nắm giữ rồi.
Tâm đă luôn luôn ở ngay đây. Chỉ cần chân thật với
chính ḿnh.
Có thể thanh tịnh và giải thoát tức th́. Chỉ cần nh́n thấy và
không can thiệp vào.
Vào những ngày thanh b́nh tiết
trời êm ả trong hai tuần lễ trước ngày
đông chí, người ta thường suy gẫm về
năm đă qua và về những khía cạnh sâu sắc
hơn của đời người.
Trong bài thơ “Những ngày
thanh b́nh”,
thi hào Walt Whitman gợi h́nh ảnh phong phú của mùa đông
và dùng những từ ngữ bóng bảy để tả những
ngày hạnh phúc an b́nh ở cuối đời một
người đă sống trọn vẹn.
Bài thơ của Whitman mang tựa đề
“Cát ở tuổi 70”
được trích từ một đoạn của cuốn
Lá Cỏ. Whitman viết cuốn sách này khi
đă cao niên nhưng bài thơ được viết cho
độc giả mọi lứa tuổi. Như thi nhân đă nhận xét, tuổi
trẻ thật thần tiên nhưng tuổi trung niên cũng
vậy, tuổi ấu thơ cũng thế, và cả tuổi
già nữa. Tuổi nào cũng
thật đẹp, thật kỳ diệu. Chỉ trong vài hàng thơ ông đă
diễn ư một cách tuyệt vời:
Không phải may mắn
trong t́nh yêu,
Tiền tài hay
danh vọng,
Vinh quang nơi
chiến trường hay chính trường
Ở tuổi
trung niên.
Nhưng khi tuổi
già đến
Và mọi đam
mê đă lắng dịu
Như bầu trời
chiều đầy sương mù nhuốm đủ mầu
rực rỡ
Như thân xác nghỉ
ngơi trong làn không khí thơm mát
Như ánh sáng ban
ngày trở nên êm dịu hơn
Và trái táo trên cây
thật chín mùi
Th́ những ngày hạnh
phúc nhất
Thanh tịnh nhất đă
đến.
Người ta măn nguyện
không phải v́ có t́nh yêu, giầu sang, vinh quang ở tuổi
trung niên. Tuy vậy Whitman vẫn
ca tụng những quăng đời khi con người c̣n mải
mê tính chuyện tương lai, tích tụ tài sản, quyền
thế và danh vọng. Những
gánh nặng này đều lư thú cả.
Tuy nhiên Whitman không quên nhắc
nhở rằng vào cuối đời người ta vẫn
t́m được những điều đẹp đẽ
và đáng quư. Cứ quay về
quá khứ mà nh́n lại quăng đời sôi nổi hay cứ
nghĩ tuổi già là ghê gớm đáng sợ là đă bỏ
qua nhiều điều có giá trị.
Khi c̣n trẻ th́ lo xếp
đặt mọi chuyện, nào học hành, sự nghiệp,
lập gia đ́nh, nuôi con cái.
Tương lai rồi sẽ ra sao? Cái ǵ quan trọng nhất? Làm sao để tự định
hướng? Đó là thời
kỳ đặt vấn đề, bổn phận, trách
nhiệm. Nhưng khi cuộc
đời tàn, mọi chuyện đều đă được
giải quyết xong, bất luận thỏa đáng hay
không, đă đến lúc phải an tịnh như trái táo
chín c̣n lủng lẳng trên cành cây.
Người Pháp có thành ngữ,
la chose bien faite – một việc đă hoàn tất tốt
đẹp, hay một cuộc đời đă sống trọn
vẹn. Thiền đi vào tận
trung tâm của cùng một vấn đề, là sống trọn
vẹn, sống đẹp, sống với hết ḷng ḿnh.
Suốt cuộc đời,
người ta bị vướng mắc trong hết sự
việc này đến sự việc khác, hối hả
vượt qua nhiều giai đoạn nên không có thời
gian nghỉ ngơi trong ánh sáng êm dịu và làn không khí
thơm mát của buổi chiều tàn. Cho nên bỏ lỡ dịp sống
trọn vẹn.
Tài tử điện ảnh
Anh Quốc Peter O’toole có kể lại một hôm tiệm giặt
ủi gửi trả lại ông chiếc áo choàng hấp tẩy
sạch sẽ với hàng chữ, “Chúng tôi rất băn
khoăn khó chịu khi phải trả lại một việc
hoàn tất không được toàn mỹ.”
Làm người th́ phải
xử sự như vậy.
Không có nghĩa là phải hoàn toàn hay phải làm công việc
nào cũng hoàn hảo nhưng điều đáng quan tâm là
phải cố gắng hết sức ḿnh.
Thiền là làm ǵ, dù sang hay
hèn, cũng phải cố gắng hết sức ḿnh trong từng
giây từng phút một, từ đầu đến cuối,
cho nên trong mỗi khoảng khắc công việc đă
được hoàn tất rồi.
Thiền không phải là đi tới một điểm
nào trong tương lai. Không có
chuyện đó, không có bảo đảm sống đến
già. Chỉ có sống trọn
vẹn trong từng khoảng khắc, đặt hết
tâm ư vào giây phút hiện tại mà làm việc, nhưng không
mong chờ kết quả nào cả.
Muốn sống trọn vẹn
như thế th́ phải biết thiêu đốt cuộc
đời trong từng khoảng khắc một. Như thế là ḥa ḿnh với
đối tượng, với bất cứ việc ǵ
ḿnh đang làm.
Dần dà có làm ǵ cũng là
một phần của cuộc đời v́ nó đă nằm
trong bàn tay, trong xương tủy rồi nên không cần phải
cố gắng nữa.
Như Whitman đă diễn
tả, sống một cuộc đời trọn vẹn
như vậy là mở rộng cánh tay mà ôm lấy tất cả:
cả đau buồn, vui sướng, kỳ diệu, những
năm mong chờ, những năm quyền thế, những
thời học hỏi. Tất
cả ở đó thể hiện ngay tại đây bây giờ
trong đời người.
Sống qua cuộc đời
rồi bước vào tuổi già, bây giờ là lúc có thể
lặng yên suy nghĩ về những điều đă học
hỏi. Cho nên tuổi già vẫn
là lúc có thể phát sinh những sự việc mới.
Một khi đă sống trọn
vẹn trong từng giây phút th́ bằng ḷng với sự
đóng góp của ḿnh mà không trông chờ vào ai hay cái ǵ ở
bên ngoài đem đến để ḿnh được
đầy đủ. Đă sống
được như thế th́ không c̣n “bên ngoài” v́ lúc ấy
không c̣n “cái tôi” nào trói buộc được nữa.
Thiền là để tâm
hoàn toàn biến đổi. Dĩ
nhiên dù có thiền hay không mà biết sống trọn vẹn
trong từng giây từng phút th́ con người cũng hoàn
toàn biến đổi.
Nhưng nếu không chú ư đến sự kiện ḿnh
thay đổi ra sao th́ khó mà giác ngộ được.
Người ta thường
nghĩ rằng muốn sống một cuộc đời
đầy đủ th́ phải đặt mục tiêu. Áp dụng trong thiền th́ mục
tiêu là sự giác ngộ.
Nhưng thiền không phải là đặt một mục
tiêu rồi đem hết tâm trí và thời gian ra để
đạt nó. Người ta
nghĩ như vậy nhưng có làm thế th́ chỉ gây thêm
rắc rối mà thôi.
Thiền là thoát khỏi mọi
trói buộc, là bước vào từng khoảng khắc mà
nh́n thấy sự việc đang phơi bầy, trước
khi bắt đầu giải thích và đặt giả thuyết.
Có một câu chuyện theo
truyền thống Lăo giáo làm nổi bật điểm
này. Một người tên
Tăng Xương muốn trở thành người bắn
tên giỏi nhất thiên hạ nên bỏ đi t́m thầy
để học. Thầy dậy
giỏi nhất là Ngụy Phi.
Việc đầu tiên Ngụy
Phi dạy Tăng Xương là không được chớp
mắt. Tăng Xương tập
nằm dưới khung cửi của vợ mắt
dương lớn để mặc bụi bậm rơi
vào. Cuối cùng khi một con
nhện giăng tơ trên mi mắt của Tăng
Xương th́ hắn biết ḿnh đă thành công. Tăng Xương kiêu hănh đến
gập thầy để khoe.
Ngụy Phi lần này dạy Tăng Xương nh́n những
sự vật cho đến khi nào đứng cách 100 bước
mà có thể nh́n được mọi chi tiết li ti trên một
lá liễu. Lúc ấy Tăng
Xương mới có thể học bắn. Tăng Xương luyện tập
nhiều năm dưới sự chỉ dẫn của Ngụy
Phi và cuối cùng bắn rất điêu luyện. Hắn đi khoe tài khắp
nơi, để những ly nước đầy trên khủy
tay trong khi bắn cả trăm tên vào một lá liễu
đặt ở cách một trăm bước mà không làm
đổ một giọt nào.
Nhưng Tăng Xương
vẫn chưa đạt được mục đích là
người bắn giỏi nhất thiên hạ. Có một người vẫn chiếm
ưu thế. Đó là Ngụy
Phi, thầy của Tăng Xương. Dù tài năng của Tăng
Xương có ngang ngửa bằng Ngụy Phi, thầy c̣n sống
th́ tṛ không thể vượt mặt.
Một hôm Ngụy Phi đi
vào một cánh đồng th́ Tăng Xương đă nằm
ŕnh sẵn từ trước liền bắn một mũi
tên nhắm tim thầy ḿnh.
Nhưng Ngụy Phi đă biết ngay nên liền nhanh
nhẹn rút một cây tên bắn chặn tên của Tăng
Xương ngay trên không trung. Một
trận chiến kỳ lạ xảy ra sau đó. Tăng Xương cứ bắn
một tên th́ Ngụy Phi lại trả đũa bằng một
tên khác cho đến khi Ngụy Phi hết tên th́ Tăng
Xương bắn vào tim Ngụy Phi. Ngụy Phi liền bẻ một
cành cây nhỏ gần kề và dùng nó để làm chệch
tên của Tăng Xương xuống đất.
Đến lúc đó th́ cả
thầy và tṛ cùng phục tài nhau nên chạy lại ôm chầm
lấy nhau. Tuy nhiên, Ngụy
Phi thấy rơ ḿnh gập nguy nên báo cho Tăng Xương biết
có một thầy giỏi hơn ḿnh nhiều tên Cảm Ứng.
Tăng Xương liền
đi t́m Cảm Ứng. Sau khi
lặn lội ở nhiều phương trời xa lạ,
cuối cùng Tăng Xương cũng t́m ra Cảm Ứng
trong một hang động trên núi cao. Cảm Ứng đă nhiều tuổi,
trông già hơn tất cả những người Tăng
Xương đă gập. “Tôi
đến để xem tôi có thật sự bắn tên giỏi
như ḿnh nghĩ không.”
Tăng Xương gầm lên.
Hắn cầm cung gắn một mũi tên rồi bắn
trúng một con ngỗng đang bay cao trên đầu. Cảm Ứng không tỏ ǵ là kinh
ngạc, nhẩy lên một phiến đá chơi vơi cả
mấy trăm thước trên cái đèo rồi gọi
Tăng Xương theo ḿnh lên đó. Quá kiêu ngạo để từ chối,
Tăng Xương cũng nhẩy lên phiến đá
nhưng liền cảm thấy chóng mặt và đầu
quay cuồng. Hắn đành quỳ
rồi ḅ xuống khỏi phiến đá.
Trong khi chưa hoàng hồn
th́ Tăng Xương thấy Cảm Ứng lấy ngón tay
chỉ một con chim đang bay tít cao trên trời trông chỉ
bằng một hạt mè. Hắn
cũng nhận thấy rằng Cảm Ứng không có
cung. Vậy mà ông lăo vẫn lắp
một chiếc tên vô h́nh lên rồi bắn nó đi. Sau một tiếng gió thổi, cái
tên vô h́nh chúng đích và hạ rớt con chim.
Tăng Xương thấy
ngay ḿnh c̣n phải học hỏi nhiều. Câu chuyện không kể Tăng
Xương phải học những ǵ, nhưng sau 10 năm
học với Cảm Ứng, Tăng Xương trở về
làng cũ. Ai cũng nhớ
đến thái độ kênh kiệu và khinh người của
Tăng Xương nhưng bây giờ hắn đă hoàn toàn
thay đổi, không c̣n tự cao tự đại nữa,
và cũng không c̣n đeo cung nỏ nữa. Trong làng ai cũng thấy Tăng
Xương đă học đuợc một điều ǵ
rất thâm thúy. Họ chờ
hắn trổ tài v́ thế nào hắn cũng sẽ bắn
tên cho mọi người xem.
Nhưng Tăng Xương
chẳng bao giờ khoe tài của ḿnh nữa. Tuy vậy tài của hắn vẫn
được đồn đại rất xa. Ít lâu trước khi chết, trong
một dịp viếng bạn, Tăng Xương thấy
một cái cung ở góc nhà th́ hỏi, “Cái món đồ ở
góc kia bạn gọi là ǵ và nó dùng để làm ǵ vậy?” Người bạn đáp, “Bây giờ
tôi mới thấy bạn thật là người bắn
cung giỏi nhất trên trần gian này bởi v́ bạn
đă quên cả tên và công dụng của cái cung.”
Sau đó ít lâu Tăng
Xương mất đi.
Người ta nói rằng sau đó trong làng những họa
sĩ quăng bỏ cọ vẽ và thợ mộc xấu
hổ khi người ta bắt gập họ với cây
thước.
Câu chuyện cố t́nh không
cho người nghe biết lư do khiến Tăng
Xương đă hoàn toàn thay đổi bởi v́ sự thật
là chẳng ai biết. Điểm
then chốt phải hiểu là không thể chỉ vào sự
việc rơ ràng nào đă thay đổi tâm tính Tăng
Xương.
Tăng Xương nh́n thấy
và hiểu được rằng chẳng có sự việc
ǵ bên ngoài để đạt cả. Hắn nhận định
được rằng thực tại luôn luôn ở ngay
đây. Cái cần phải nắm
vững là cuộc đời ḿnh đang sống tại
đây trong từng khoảng khắc hiện tại. Tăng Xương buông bỏ ham
muốn, khát vọng để trở thành một con
người đặc biệt.
Tới một lúc nào,
người tập thiền cũng như Tăng
Xương hiểu rằng thiền là để giải
thoát tâm, chứ không phải để vướng mắc
trong mục tiêu, tư tưởng hay sự kiêu hănh. Cũng không phải để từ
bỏ cuộc đời hay các mục đích ở đời
mà để không c̣n níu kéo, để sống b́nh thường
nhưng thong thả, không bị những sự việc nghe
thấy, nh́n thấy hay sờ mó lôi cuốn.
C̣n có tâm của Tăng
Xương thời trẻ th́ c̣n chẳng hiểu ǵ về
giáo lư hay thực hành thiền mà vẫn theo lối sống
tham lam níu kéo thông thường.
Phải luôn luôn tự nhắc
nhở đến hoàn cảnh đang sống và quan sát cái
tâm hay phân biệt và phê phán mà nhận thức rằng chính
v́ nó thiên vị nên mới gây phiền năo hoang mang.
Có biết tâm ḿnh tham lam, sợ
hăi, níu kéo mới thay đổi và thoát khỏi khổ
đau.
Khó mà diễn tả
được trọn vẹn sự thật. Thường thường khi
người ta nói về một vấn đề ǵ th́ sự
kiện được tŕnh bầy rơ ràng mạch lạc. Nhưng nói về pháp th́ không giản
dị như vậy. Cái ǵ về
pháp con người cũng đă biết cả rồi. Những tiếng được
dùng chỉ để nhắc nhở đến những sự
việc họ đă thấy biết nhưng lâu ngày nên
đă quên. Có khi nghe giảng
pháp xong, người nghe không c̣n nhớ lại được
ǵ nhưng vẫn có cảm giác ḿnh đă thu thập
được rất nhiều.
Giáo pháp là để nhớ lại những sự việc
không thể diễn tả được bằng văn tự,
không thể hiểu, không thể khái niệm hóa nhưng lại
chỉ nh́n thấy được trực tiếp.
Có hai thiền sinh nói chuyện
với nhau. Người thứ
nhất nói, “Thiền thật khó, phải tự kiểm
soát ḿnh đêm ngày.” Người
thứ hai đáp, “Không đúng.
Thiền tự nhiên và dễ dàng, như nước chảy
tự t́m lấy chỗ thấp.”
Thiền sinh thứ nhất
tin rằng ḿnh đúng nên đến hỏi thầy để
được chứng thực.
“Thiền thật khó. Phải
cố gắng và kỷ luật nhiều. Phải không ạ?”
Thầy nh́n tṛ rồi nói, “Đúng vậy.”
Vui mừng rằng thầy đă xác nhận
sự hiểu biết của ḿnh về thiền, thiền
sinh thứ nhất đi t́m bạn để khoe. “Thầy đồng ư với tôi.”
Thiền sinh thứ hai nghĩ, “Sao thế
được? Thiền không
khó khăn ǵ.” Rồi đi t́m
gập thầy mà hỏi, “Thiền không khó, giống như
mùa thu lá ĺa cành, phải không ạ?”
Người thầy đáp, “Đúng vậy.”
Người phụ tá thiền sư có
chứng kiến cả hai buổi gập mặt, không chịu
nổi liền đến chất vấn thầy. “Thầy đồng ư với thiền
sinh thứ nhất rằng thiền khó nay lại đồng
ư với thiền sinh thứ hai là thiền không khó. Thế nghĩa là thế nào? Thiền không thể vừa dễ
vừa khó.”
“Đúng vậy.” Thiền sư đáp.
Phải hỉểu câu chuyện trên
như thế nào đây? Không lẽ
đó là một câu chuyện ngớ ngẩn, mâu thuẫn,
không có nghĩa lư ǵ?
Vấn đề là con người nghĩ
ḿnh phải nắm lấy sự việc th́ mới
được. C̣n nghĩ
như thế th́ không thể nào hiểu được dụng
ư của câu chuyện, là không thể nào diễn tả hay nắm
lấy thực tại được mặc dù lúc nào nó cũng
ở ngay trước mắt.
Nghe kể chuyện th́ dễ hiểu
hơn là chỉ nh́n thôi. Cho nên
người ta mới khéo xếp đặt cả thế
giới vào trong tâm, nhất định rằng sự việc
phải như thế này thế kia. Nếu có khác th́ lại cho là lố
bịch. Cứ hành xử
như thế th́ chẳng thể nào nh́n được thực
tại.
Phải thôi t́m kiếm một sự vật
ǵ đặc biệt (một khái niệm, một giáo lư, một
giải đáp) với hy vọng nó đem lại cho ḿnh sự
giải thoát. Nắm giữ
cái ǵ th́ cũng là rút nó ra khỏi cái toàn bộ. Không thể nào mà t́m được
Sự Thật trong phạm vi của những tư tưởng
và tin tưởng.
Con người sống bằng kinh nghiệm,
không bằng lời giải thích.
Dù có muốn chia sẻ kinh nghiệm của ḿnh với
người khác cũng không được. Muốn cùng kinh nghiệm một
buổi chiều tàn với ai th́ bàn căi về buổi hoàng
hôn thật vô ích. Chỉ đứng
cạnh người đó và cùng ngắm mà không cần nói lời
nào.
Thiền sư nào tin rằng lời ḿnh
giảng là sự thật th́ đều sai lầm. Một khi thiền sinh nắm giữ
niềm tin đó rồi th́ thiền sư không thể nào lấy
lại được và khiến thiền sinh không
được nếm mùi tự do.
Cuối cùng th́ phải từ bỏ ư
tưởng rằng có một khái niệm, tư tưởng, tin tưởng, tôn
giáo, lối trang phục, cách cư xử đặc biệt
nào có thể đưa người ta đến Sự Thật. Không thể đồng hóa với
ai để ḥng mong được giải thoát, được
đầy đủ. Có thế
mới có thể bước vào khoảng khắc hiện tại
tràn đầy sức sống và hoàn toàn tỉnh thức.
31
Tập thiền là tập
phát triển một cái tâm toàn diện, không phân biệt,
không chỉ nh́n một phần mà bỏ quên toàn bộ, bởi
v́ vạn vật nằm trong đó và được cái toàn
bộ đó nuôi dưỡng.
Tâm toàn diện đó c̣n được gọi là tâm vô
ngă.
Không phải cứ thiền,
nghe giảng pháp, đọc kinh sách Phật, hay tự
xưng là Phật tử mà tự nhiên có được tâm
đó. Phải cố gắng
cho đúng cách mới được. Không phải cố gắng ra “bên
ngoài” để sửa đổi cái thế gian liên tục
thay đổi mà là nh́n xâu vào chính cuộc đời ḿnh và
tâm ḿnh để t́m hiểu khó khăn và hỗn loạn từ
đâu đến.
Tất cả giáo lư và
phương pháp của đạo Phật đều tập
trung vào vấn đề bản ngă. Cho nên thiền là một
phương pháp rất thực dụng giúp con người
nh́n thấy rằng bản ngă – “cái tôi” - chỉ là một ảo
tưởng. Phải quan sát rồi
suy gẫm về tất cả những sự việc ḿnh
đang làm.
Vần đề của
con người không ở thế giới bên ngoài, không phải
là chuyện sửa đổi một hoàn cảnh đặc
biệt nào cả, mà là quan sát tâm trạng của ḿnh.
Có một câu chuyện kể
một thiền sư hết mực khen ngợi một môn
đệ. Nhiều người
thắc mắc muốn biết tăng sĩ này có ǵ đặc
biệt. “Hăy theo tôi.” Thiền sư nói rồi
đưa họ về nơi các tăng sĩ ở. Ông gơ cửa một căn
pḥng. Từ bên trong nghe tiếng
bút được ném xuống, nhiều trang giấy lật,
một cuốn sách đóng lại rồi tiếng chân
người. Cửa mở và
một chàng trai trẻ ló mặt.
Thiền sư liền nói, “Xin lỗi nhé, tôi lầm
pḥng.”
Đến căn pḥng kế
bên, thiền sư lại gơ cửa. Tức th́ có tiếng chân người
rồi một chàng trai trẻ khác ra mở cửa.
“Chúng tôi vào được
không:” Thiền sư hỏi. Chàng trai mời ngay mọi người
vào. Trong pḥng, người ta thấy
trên bàn một tờ giấy có h́nh đang vẽ c̣n chàng
trai th́ tay c̣n đang cầm bút.
Rơ ràng anh ta đang vẽ th́ ngừng lại v́ tiếng
gơ cửa. Thiền sư liền
quay về phía khách mà nói, “Một người như thế
này học rất dễ.” Ông
biết rằng dậy một người sẳn sàng bỏ
dở dự tính của ḿnh không khó cho nên mới ngợi
khen.
Thoạt đầu người
ta thường thấy thiền học rất mâu thuẫn. Nhưng chú ư nhiều th́ mới thấy
những mâu thuẫn này dần dần đều được
giải tỏa. Sở dĩ
lúc đầu thấy có nghịch lư là v́ người ta
đă có sẵn định kiến và tâm thường thiên
vị.
Người học thiền
phải biết buông bỏ những tư tưởng, thái
độ, lối giải quyết vấn đề, cách
cư xử đă ôm ấp từ lâu, một cách nhanh chóng
như người tăng sĩ trẻ bỏ cây bút để
ra mở cửa. C̣n giữ chặt
lấy một khái niệm nào về thế gian, sự công
bằng, Phật giáo, ḿnh là ai, th́ c̣n cưỡng lại sự
chỉ dẫn của thầy, th́ c̣n chưa thấy
được. Như thế
là chưa thay đổi và phía sau vẫn c̣n hỗn loạn.
Nhưng đồng thời
cũng phải nhận thức rằng có làm trái lại,
nghĩa là chấp nhận bất cứ lời giảng
nào của thầy mà không suy xét kỹ lưỡng th́ cũng
không kém sai lầm. Đón nhận
một cách mù quáng, không suy xét không phải là cởi mở
mà cũng chỉ là bám víu. Ở
đây là bám víu vào ư tưởng rằng thầy nói ǵ đều
là sự thật.
Nên suy gẫm lời khuyên
sau đây của Đức Phật.
Đừng tin lời ta nói v́ quư vị coi ta như bậc
thầy. Đừng tin ta v́ đă có
người tin ta. Cũng
đừng tin cái ǵ đă được viết trong
sách. Đừng tin những lời
đồn đại, những bậc lănh đạo tôn
giáo hay kinh sách. Đừng chỉ
tin vào sự suy luận, vẻ bề ngoài hay sự ước
đoán. Tự ḿnh t́m hiểu lấy
sự việc nào tốt th́ theo, sự việc nào xấu
th́ tránh.
Đức Phật c̣n dạy
một con đường khác là tránh cực đoan. Đừng hoàn toàn tin vào sự việc
nào cả, cũng đừng hoàn toàn bác bỏ. Như người Hy lạp khi
xưa, Phật pháp khuyên con người nên hoài nghi. Chỉ nên tin một phần nào,
c̣n th́ phải xét kỹ bằng cớ. Không nên tin hẳn, cũng không nên
bác bỏ hẳn. Cứ tra cứu,
thử nghiệm và xét cho đứng đắn và cởi mở.
Chưa xem xét một sự
việc mà đă vội bác bỏ là dấu hiệu của
một người tin tưởng chứ không phải của
một người hoài nghi. Những
kẻ không muốn suy xét, không muốn kinh nghiệm là v́ họ
đă có sẵn quá nhiều tư tưởng. Với họ thế giới này cố
định, bất biến. Họ
đă có sẵn thành kiến nên nhất định coi rẻ
và bác bỏ một số thái độ. Thế là yếm thế, không phải
hoài nghi.
Muốn có tâm trong sáng th́ phải
bỏ một bên những thành kiến. Nhưng không có nghĩa là phải
ôm lấy thành kiến của người khác, của một
thiền sư chẳng hạn.
Một bậc chân sư không bao giờ đưa môn
đệ của ḿnh theo con đường đó mà chỉ
quan tâm đến sự giác ngộ của họ thôi.
Lúc đầu nhiều
người đi tu nghĩ rằng ḿnh sẽ thực hiện
được nhiều điều cao quư. Như thế cũng chỉ là củng
cố bản ngă, là thêm ích kỷ.
Có thật sự muốn sống đời tu hành th́
chỉ cần từ bỏ tham vọng, kể cả tham vọng
về tôn giáo. Có thế mới
phát triển được tâm từ.
Có tâm từ ái th́ mới biết
rộng lượng mà không cảm thấy phải hy sinh, mới
biết cởi mở mà không cảm thấy phải khoan
dung, mới nhẫn nhục mà không cảm thấy phải
chịu đựng, mới thấy thương người
mà không cảm thấy xa cách, mới thấy có trí huệ mà
không cảm thấy phải sửa đổi ai cả.
Phần đông người
ta tập thiền với tâm phàm.
Ho nghĩ tập thiền giúp ích cho họ, đem lại
cho họ thêm sức khỏe, hạnh phúc, hay đức
tin. Cứ như thế họ
thường đối phó với mọi sự việc với
thái độ phải được lợi lộc. Nếu không th́ bận tâm làm ǵ?
Thiền như thế là
thiền theo thói thường, không phải thật sự
thiền. Có nhiều loại
thiền theo thói thường, tùy theo người thiền
muốn đạt được ǵ. H́nh thức thông dụng nhất
là thiền cho ḿnh, để bản thân được giác
ngộ, thoát khỏi phiền năo, khổ đau, để
trở thành một thiền sư danh tiếng. Thường thường người
ta khởi sự thiền là như thế.
Dần dà th́ họ hiểu
rằng thiền là để giúp vạn vật, nghĩa là
để hướng tâm về người khác. Tuy nhiên, nếu không hiểu sâu xa
mối liên hệ giữa ḿnh và người th́ lại chỉ
tạo một bề ngoài thương người mà kỳ
thực bên trong vẫn chỉ là thương chính bản
thân ḿnh. Tôi muốn giúp mọi
người. Tôi muốn ḥa
ḿnh với tha nhân. Tôi không muốn
ích kỷ.
Những tư tưởng
trên không phải là thiền thật sự. Cũng có khi người ta thiền
với hy vọng có những kinh nghiệm huyền bí
như cảm thông với Thượng Đế hay tan biến
trong một bầu năng lực.
Những kinh nghiệm này đều kỳ diệu
nhưng vẫn không phải là thiền, mà cũng chẳng
liên quan đến Phật giáo.
Trong thiền học, không
có dụng ư. Thiền là để
thiền. Điểm thiết
yếu là lư do thúc đẩy.
Thiền với một mục đích th́ giống thiền
nhưng không phải là thiền.
Chỉ là rối loạn như thói thường.
Người ta thích làm việc
ǵ đặc biệt, phi thường. Nh́n từ bên ngoài th́ thiền có vẻ
mang những đặc tính trên, nhưng thế th́ chỉ
là ảo tưởng. Thiền
không phải như vậy.
Thiền sư Nhật Bản
Bàn Khuê là một người thuyết pháp giỏi
được đám đông ưa chuộng. Một hôm, một đệ tử
của một môn phái khác v́ ghen tức mới đ̣i Bàn Khuê
phải tranh luận với ḿnh.
Hắn nói, “Vị sáng lập
ra môn phái của chúng tôi đứng bên này bờ sông. Người phụ tá đứng
bên kia sông cầm một mảnh giấy trắng. Sư phụ của tôi cầm bút
mà viết được tên Phật lên mảnh giấy
đó qua không khí. C̣n ngài th́
sao?”
“Tṛ đó hay lắm.” Bàn Khuê nói.
“Nhưng thế không phải là thiền. Phép lạ của tôi là chỉ lo
ăn khi đói và uống khi khát.”
Người ta phải hiểu
cho rành mạch rằng thiền không liên quan ǵ đến
phép nhiệm mầu hay phát triển tài năng đặc biệt,
mà chỉ là sống đời sống b́nh thường
hàng ngày.
Thiền mà tưởng ḿnh
làm việc ǵ đặc biệt phi thường là có tâm
phàm chỉ biết hơn thiệt, mục tiêu và kết quả.
Simone Weil có viết, “Bản
ngă tầm thường của chúng ta không ngại gian khổ
mà chỉ sợ bị tiêu diệt.”
Cứ xét mà xem. Trong cuộc đời mỗi
người, ai cũng phải chịu biết bao khó
khăn đau khổ để có bằng cấp, có việc
làm, để thiên hạ nể trọng, để chiều
chuộng người khác hay chính ḿnh.
Trong thiền học, điểm
này không đáng kể. Vậy
mà người ta vẫn nghĩ phải gian khổ mới
giác ngộ được. Dù
có phải chịu khổ đau nhưng nếu không xét kỹ
lư do thúc đẩy ḿnh thiền th́ vẫn hoang mang khổ sở.
Con người thật sự
sợ cái ǵ? Họ không sợ
đau đớn khổ sở, mệt nhọc mà chỉ sợ
chết, sợ cái tôi bị tiêu diệt. Họ t́m đủ mọi cách
khôn ngoan và tuyệt vọng để lẩn tránh cái chết,
chẳng hạn gây tiếng tăm, xây dựng tài sản,
quyền thế, tạo mục đích cao cả, cố gắng
thích ứng hay chống đối.
Những lối sống này đưa đến những
kiểu thiền phô trương, tham dự nhiều khóa tu
tập, may sắm những bộ áo thiền, giảm dần
lối sống trong xă hội.
Oái ăm thay, những sự việc đó không phải
là thiền mà chỉ là tạo thêm ảo tưởng.
Thật ra phần đông
người ta sợ tự do và thầm nghĩ, “Ta thật
không muốn tự do v́ như thế chẳng ai để
ư đến ta. Ta sẽ bị
bỏ quên để mà rơi vào hư vô.” Cho nên họ không ngại làm việc
điên dại trong những lănh vực mà người ta
không sợ, như chịu mệt nhọc khổ đau.
Tập thiền (như lời
Phật dạy là “chánh tinh tấn”) không phải là cố gắng
tranh đấu mà là đem hết tâm ư vào làm công việc
trong hiện tại. Khi nghe
th́ chỉ biết nghe, khi rửa bát th́ chỉ chuyên tâm rửa
bát, khi lái xe th́ chỉ chăm chú lái xe. Thế là uống khi khát, ăn khi
đói.
Con người tưởng
ḿnh muốn giác ngộ. Khó
khăn khởi sự là từ đó. Họ muốn đạt
giác ngộ và muốn biết bao giờ th́ đạt
được để c̣n biết cái thú đó. Thay v́ xem chiếu cuốn phim “ảo
tưởng” th́ bây giờ người ta lại muốn
xem chiếu cuốn phim “giác ngộ.” Nhưng đă không muốn t́m hiểu
ảo tưởng th́ cũng sẽ không muốn t́m hiểu
giác ngộ.
Thêm một điều mỉa
mai là nếu biết được rằng ḿnh hành xử
như thế th́ đă giác ngộ ngay được rồi. Một khi không c̣n tự lừa dối
ḿnh là bắt đầu giác ngộ.
Người ta hướng
về thời xa xưa để t́m ở những bậc
thầy, những quyền năng đặc biệt mà họ
muốn phát triển. Thế cũng
chỉ là nghĩ đến ḿnh thôi mà không hay biết, mà c̣n
than trách là tại sao ḿnh không giác ngộ.
V́ thiền quá giản dị nên
người ta dễ bỏ quên.
Trông qua th́ tưởng thiền khó nhưng kỳ thật
chính tâm người và những tư tưởng mới thật
là khúc mắc, cho nên mới tạo khó khăn cho họ. Thiền là để thấy rơ
ḿnh tự gây rắc rối cho ḿnh nên mới phải chịu
khổ cực. Dần dà cứ
tập nh́n thôi cũng đủ, không cần phải cố
gắng mà cũng thoát khỏi vướng mắc.
Tất cả chỉ là vấn
đề lư do thúc đẩy.
Bạn muốn đạt một sự vật ǵ,
hoàn tất một công việc ǵ, hay bạn muốn tỉnh
thức?
Trong kinh sách Phật người
ta thường dùng tiếng “bồ tát”, có nghĩa là một
người đă giác ngộ, một người có trí huệ
và từ tâm muốn cứu độ chúng sinh khỏi phiền
năo. Nghe có vẻ đặc biệt
nhưng một vị bồ tát xuống thế cũng
không khác ǵ một người bộ hành xuống thế.
Hiện giờ bạn không
phải là một người bộ hành. Một khi bạn bỏ sách xuống
rồi muốn đi tản bộ th́ bạn trở thành một
người bộ hành. Tự
nhiên có một người bộ hành bước vào thế
gian. Tuy nhiên không một ai lúc
nào cũng là một người bộ hành. Khi nào bạn dừng bước
th́ người bộ hành biến mất.
Cũng như thế, các vị
bồ tát xuất hiện trên trần gian. Bất cứ lúc nào cũng có những
vị bồ tát xuống thế.
Lúc này có thể là bạn, lát nữa có thể là
người khác. Nếu nghĩ
rằng bồ tát là một người đặc biệt,
sinh ra ở một thời buổi nhất định và
có những quyền năng lạ thường th́ đă hiểu
lầm khía cạnh thực tế của một vị bồ
tát. Cũng như lúc nào bạn
cũng có thể là một người bộ hành th́ lúc nào
bạn cũng có thể là một vị bồ tát mà không dự
trù hay tính toán trước.
Đó là thực tế của
đời người phơi bầy ra như vậy,
không nhất định phải như thế nào, mà rất
sôi nổi, thực tiễn, phàm tục.
Người ta thường
nói rằng một vị bồ tát khi xuống thế th́
không c̣n màng ai hiểu ḿnh hay ḿnh hiểu ai. Thật như thế. Không hiểu là cốt yếu của
đạo Phật và tối cần cho sự giác ngộ.
Đức Phật nói có hai
loại kiến thức. Loại
thứ nhất Ngài gọi là “tùy nghi mà hiểu” – nghĩa là
biết sự vật có h́nh thể ǵ, nghe ra sao, nh́n thấy
thế nào. Muốn có loại
kiến thức này th́ phải lập khái niệm, tư
tưởng và phân biệt những sự vật ra từng
nhóm riêng biệt. Tùy nghi mà hiểu
là hiểu trong phạm vi của các vật đối
đăi, cái này cái kia, là nh́n thế gian từng phần một.
Người ta thường
hành xử như thể kiến thức này tiêu biểu cho
Thực Tại. Nhưng chỉ
cần đào sâu thêm một chút th́ thấy ngay là họ
không biết ǵ cả nên mới sợ hăi.
Để đối phó,
người ta lại nghĩ sai lầm thêm là nếu có một
kiến thức thích hợp th́ sẽ hiểu được
tường tận. Nhưng
Thực Tại linh động, biến chuyển liên tục,
làm sao dùng loại kiến thức tùy nghi mà hiểu
được. Chẳng khác
ǵ muốn múc nước bằng cái sàng. Có dùng cái sàng tốt nhất cũng
chẳng làm được công việc múc nước.
Tuy vậy người ta vẫn
có thể biết được Thực Tại v́ sự
thật là người ta có biết ǵ khác hơn là Thực
Tại đâu!
Nhưng muốn mô tả Thực
Tại th́ không được v́ chỉ có một ḍng biến
chuyển liên tục. Nói cái ǵ
th́ chỉ là đóng băng một phần li ti của Thực
Tại. Nhưng v́ Thực Tại
không thể đóng băng được mà tuôn chảy
không ngừng, th́ có nói ǵ cũng là sai, cũng không thể đưa
đến Sự Thật.
Không thể dùng lời nói mà nắm được Sự
Thật.
Tuy vậy, người ta vẫn
có thể nh́n thấy nó.
Cho nên Đức Phật
đă đề cập đến một loại kiến
thức thứ hai có thể giúp con người giác ngộ
mà nh́n thấy là không thể nắm giữ được
Thực Tại v́ nó luôn luôn tuôn chảy. Lối nh́n đó gọi là nh́n thấu
suốt chứ không phải nh́n phiến diện. Đức Phật gọi lối
nh́n này là “thâm nhập.”
Bao giờ con người cũng
chỉ có ngay tại đây, ngay lúc này cùng với những
sự việc diễn tiến tại đây bây giờ. Có tập hiện hữu tại
đây bây giờ th́ mới thấy rằng bất cứ sự
việc nào mà tâm không đóng băng lại th́ đều
tuôn chảy và được thể hiện dưới
nhiều h́nh thức khác nhau.
Sự thật là con người
không thể nào biết được rành mạch bất cứ
sự việc nào cả. Thâm
nhập là nh́n thấy trực tiếp, là hiểu âm thầm
nhưng thấu đáo khoảng khắc này mà không có tư
tưởng về “cái tôi” xen vào.
Phải công nhận rằng
một khi con người níu lấy sự việc ǵ th́ liền
để tất cả trong một thế giới phiến
diện, nghĩa là lầm tưởng cái ḿnh nghĩ với
Thực Tại, là nhầm lẫn tư tưởng, tin
tưởng, quan điểm với sự thật. V́ điểm này mà con người
đau khổ.
Nhờ thông suốt mà một
vị bồ tát xuống thế trong lúc này mà không muốn
hiểu sự việc ra sao, v́ thấy rơ rằng chẳng
có ǵ là đặc biệt ngay cả chính ḿnh, “tôi”, một vị
bồ tát.
Con người luôn luôn xuống
thế, lúc th́ dưới dạng một bồ tát, lúc th́
là một người bộ hành, một người đọc
sách, hay bất luận một vật ǵ khác cũng nhất
thời như vậy.
Bồ tát xuống thế với
sự hiểu biết đó.
Không có níu kéo, bám víu vào kiến thức tạm bợ tùy
nghi. Không cần hiểu ai và cũng
không cần ai hiểu là không bị lạc trong tư tưởng. Ở mỗi trường hợp
lại một khác, không có bản ngă, không có dự tính, không
có trông đợi ǵ. Như thế
là không c̣n động loạn, khó chịu, bồn chồn,
lo lắng nữa. Không biết
cũng không hề ǵ.
Muốn biết mọi sự
việc th́ thế nào cũng gây động loạn trong
tâm. Thật vậy, cứ xét
là thấy ngay tâm náo loạn mỗi khi ḷng khao khát nắm
được một tư tưởng, một giải
đáp hay một lời giải thích. Phiền năo thường biểu
lộ như vậy.
Cuối cùng th́ chẳng có
ǵ để níu kéo. Có hiểu
được rằng thế gian bao giờ cũng thế
th́ có thể vượt lên khỏi cái thôi thúc cứ muốn
biết. Chính niềm khao khát
này ngăn trở con người không thể nh́n thấy Thực
Tại.
Con người thường
chỉ muốn nắm giữ cái ǵ, hiểu cái ǵ, điều
khiển cái ǵ. Nếu họ
nhận thấy cái ǵ đó không phải là sự thật
th́ họ khổ sở lắm và lại đi t́m cái
khác. Nhưng chẳng bao giờ
thành công.
Tuy vậy, trong mỗi khoảng
khắc con người đều hiện hữu và Thực
Tại th́ lúc nào cũng ở đây trong từng khoảng
khắc cho họ nh́n thấy mà không cần phải dựa
vào một tư tưởng, một tin tưởng, một
giải đáp hay một cơ cấu nào để nâng
đỡ hay an ủi họ.
Thật ra có cái ǵ để nâng đỡ, có cái ǵ
để an ủi đâu?
Con người bỏ rất
nhiều thời gian và sức lực để sợ hăi
và lo nghĩ. Rồi chạy
đôn đáo tứ phương v́ tưởng rằng ḿnh
phải che chở và chiều chuộng cái ǵ.
Bồ tát xuống thế
mà không cần những điều đó. Con người cũng vậy,
không cần phải t́m hiểu cũng không cần ai phải
hiểu ḿnh. Họ chỉ cần
tỉnh thức ngay tại đây ngay lúc này, ngừng lải
nhải với chính ḿnh và hiện hữu trong khoảng khắc
này.
Không có điều ǵ để
chứng minh, để t́m hiểu, để đạt tới. Khi nào người ta tuyệt nhiên
không giảng giải cho ḿnh nữa th́ sẽ khám phá ra ngay rằng
họ vốn đă hiểu tất cả từ bao giờ
rồi.
34
Khi mới học giáo lư
đạo Phật th́ thấy thật rắc rối, lộn
xộn, bí hiểm, xa lạ.
Nhưng những điều Đức Phật dạy
thật sự rất đơn giản và thực tế. Chỉ v́ con người hay suy nghĩ
nên mới cho là phức tạp.
Điểm chính yếu của Phật pháp chỉ là thức
tỉnh mà nhận thức được Thực Tại.
Người ta nói rằng
Phật giáo dạy có ba lối dẫn đến Sự Thật. Thứ nhất là nhờ thầy,
thứ nh́ là bằng suy luận, thứ ba là qua kinh nghiệm
trực tiếp. Bất luận
câu này có phải là một giáo lư Phật giáo hay không th́
căn bản cũng có nhiều điểm sai lầm.
Ư tưởng cho rằng muốn
đạt được sự thật th́ phải nhờ
thầy không đứng vững.
Bertrand Russell, một triết gia Anh Quốc, đă
đạp đổ lập trường này khi ông lư luận
rằng có nhờ thầy th́ thế nào cũng có thầy
khác đối nghịch lại.
Trong Phật giáo vị thầy cao cả
nhất là Đức Phật.
Vậy mà chính Ngài đă khuyên người ta không nên dựa
vào người khác, kể cả Ngài. Đức Phật thường
nói, “Đừng tin ta v́ đă có người tin ta hay coi ta
là thầy.” Ngài luôn luôn khuyên nhủ
người ta phải xét cho kỹ để tự ḿnh
nh́n thấy mà hiểu, nghĩa là không mù quáng chấp nhận
hay bác bỏ những lời của bậc thầy mà nên
nghe và xét thử xem có phù hợp với thực tế không.
Đức Đạt Lai Lạt Ma có lần
đă nói, “Có nhiều sự việc người Phật tử
nên học hỏi từ những khám phá khoa học mới
mẻ nhất. Nên nghiên cứu
rồi chấp nhận kết quả. Nếu kết quả không qua
được cuộc thử nghiệm th́ ngay cả lời
Phật cũng nên bác bỏ.”
Như thế mới là theo đúng tinh
thần của lời Đức Phật dạy và
phương pháp khoa học thời nay.
Người ta thường lầm
tưởng rằng những người đă giác ngộ,
một khi đă thấy rơ thực tại rồi, th́ dùng những
lời tuyệt đối để nói về cái tuyệt
đối. Cho nên họ ghi lại
lời nói của những vị này mà bảo tồn, học
hỏi và sùng kính măi măi.
Nhưng con người có giác ngộ hay không th́ cũng
không bao giờ chứng nghiệm được sự tuyệt
đối. Họ chỉ chứng
nghiệm được sự biến chuyển. Đức Phật đă dạy
như thế và lời của Ngài áp dụng cả cho giáo
lư của Ngài.
Có những nhóm Phật tử thường
họp nhau lại để nghiên cứu những hành động
của họ, xem cái ǵ c̣n thích hợp và cái nào đă lỗi
thời. V́ thời thế thay
đổi, những sự việc thích hợp ở một
nơi khác một thời khác có thể không c̣n thích hợp
tại đây bây giờ. Không
nên tự trói buộc ḿnh vào những sự việc áp dụng
từ 2.500 năm trước ở một nền văn
hóa xa xăm hay ngay cả 20 năm trước ở ngay tại
đây. Có những sự việc
không những không c̣n thích hợp mà c̣n có thể nguy hại
nữa.
Con người nên luôn luôn xét lại giáo
lư mà ḿnh rao giảng. Phải tự
hỏi, “Sự việc này có hữu hiệu không? Có giúp người ta mở mắt
không?”
Nói tóm lại, đúng như lời
Đức Phật dạy, mặc dù sự việc ǵ cũng
phải tôn trọng nhưng không có nghĩa là sự việc
ǵ cũng đều thiêng liêng cả. Cho nên Đức Phật mới
ví giáo lư của ḿnh như một cái đ̣. Một khi đă sang sông rồi th́
phải bỏ đ̣ lại mà đi.
Một điểm khác về vấn
đề thầy dạy cần được nêu lên. Mỗi người đều có
quyền đặt niềm tin nơi một người
hay một cơ quan, hoặc chọn lựa lối sống
của ḿnh. Trao quyền này cho
ai là lười biếng, là có khuynh hướng không quan tâm
đến sự việc đang xảy ra mà để
người khác có thể thao túng hay lừa đảo ḿnh.
Đức Phật thấy rơ điều
này nên đă cảnh cáo. Chẳng
hạn Ngài khuyên người ta đừng nên tạc h́nh ảnh
Ngài. Lúc đầu người
ta quả không làm như vậy.
Mỗi người phải nên hiểu
ḿnh là một vị Phật.
Càng thần thánh hóa người được gọi
là Phật th́ càng khó tỉnh thức. Bởi v́ nếu cứ đề
cao thầy dạy ḿnh thành thánh th́ càng khó nhận định
rằng ḿnh cũng chẳng khác ǵ họ.
Cuối cùng th́ thầy dạy chính là
kinh nghiệm trực tiếp của ḿnh. Chẳng phải t́m thầy
đâu xa.
Phương cách thứ hai mà người
ta nói có thể giúp t́m được Sự Thật là bằng
lối suy luận.
Đương nhiên là suy luận có hơn nghe theo một
cách mù quáng bởi v́ người ta phải đi từ giả
thuyết ban đầu cho đến kết luận. Nhưng lối lư luận này không
cho biết giả thuyết ban đầu có giá trị
không. Cho nên cũng không thể
dùng phương pháp này mà t́m ra sự thật được.
Lấy thí dụ sau đây gọi là tam
đoạn luận th́ khắc biết:
Tất cả
chim đều mầu xanh.
Vua xứ
Tây Ba Nha là một con chim.
Cho nên vua xứ Tây Ba Nha có mầu xanh.
Lư luận trên rất chặt chẽ. Tuy nhiên v́ hai giả thuyết
đầu đều sai nên kết luận tuy phù hợp với
giả thuyết nhưng vẫn sai. Lối suy luận rất đúng
nhưng lại phải t́m một cái ǵ khác để bảo
đảm là tiền đề căn bản có giá trị.
Thật ra giáo lư Phật giáo có dùng đến lư luận
để chứng minh rằng những giả thuyết
con người đă công nhận về Thực Tại
đều sai lầm. Lư luận
của Phật giáo, như Long Thọ đă dùng, giúp người
ta thấy rơ là khái niệm chỉ đưa họ đu
đưa trước bờ vực thẳm chứ không
đưa được họ đến sự thật.
Nếu con người không tin tưởng
được vào thầy, không dùng được lư luận
th́ chỉ c̣n kinh nghiệm trực tiếp. Khi mọi khái niệm của họ
về ḿnh, người, tánh không, Phật giáo đều tan
biến rồi th́ vẫn c̣n kinh nghiệm trực tiếp. Quan sát cẩn thận kinh nghiệm
này c̣n cho thấy một điểm quan trọng là: Khi trực tiếp chứng nghiệm
một sự việc ǵ th́ không có ai chứng nghiệm cả.
Huệ Năng, tổ thiền thứ
6, có hỏi một thiền sư khác tên Hoài Nhượng: “Ông từ đâu đến?”
“Tôi đến từ Đông Sơn,”
Hoài Nhượng nói.
Huệ Năng hỏi tiếp, “Cái ǵ
đến?”
Hoài Nhượng lặng thinh không nói
được ǵ. Ông suy gẫm
về câu hỏi này trong tám năm trường. Một hôm ông chợt hiểu nên
thốt lên, “Có nói là cái ǵ cũng không đúng.”
Người ta phải tự ḿnh trực
tiếp nh́n thấy mới được. Xét thật kỹ càng th́ cái mà
người ta gọi là “tôi” tan ră ngay. Nhưng kinh nghiệm trực tiếp
th́ vẫn tiếp tục.
Không có cái ǵ được chứng nghiệm
ngoài kia mà cũng không có kẻ chứng nghiệm ở trong
này. Người ta chỉ
tưởng thế thôi.
Ai cũng sinh ra đời trần truồng
và ngây thơ và chẳng có ǵ khác ngoài kinh nghiệm trực
tiếp đang diễn tiến.
Chỉ có như thế này.
Khó khăn là con người không biết
chú tâm đến kinh nghiệm hiện thời bởi v́ họ
suy nghĩ nhiều quá. Thật
ra quan tâm đến hiện tại rất giản dị. Chỉ cần quan sát rồi so
sánh sự việc đang diễn tiến với tư
tưởng trong đầu ḿnh khác nhau ra sao. Sau đó phải đối đầu
với nghịch lư và hỗn loạn.
Nên bắt đầu quan sát những sự
vật thông thường như cây cỏ, chim chóc, người
ta, tâm, tư tưởng, cảm xúc, ngay cả những sự
vật hoang đường như ma quỷ, thiên thần. Xem những sự vật này
như những kinh nghiệm chứ không phải những sự
vật ở “ngoài kia” tách khỏi “bạn.” Cứ b́nh thản mà xem xét, không
nên b́nh luận ǵ cả. Hoạt
động này giản dị, không phức tạp.
Cứ tiếp tục xem xét không ngừng
những hành động, tư tưởng, lời nói, tin
tưởng của ḿnh. Cứ
để khái niệm thầy dạy hay suy luận tự
chúng tan ră. C̣n lại chỉ có
Thực Tại, tức là sự việc đang xảy ra,
trước khi người ta can thiệp vào.
Trong những câu thơ ở
đầu đoạn thứ 32 của bài thơ dài nhất
của ông, “Bài hát về tôi”
thi hào Walt Whitman đă viết:
Tôi chắc ḿnh có thể về sống
với thú vật
V́ chúng rất hiền
ḥa và ít đ̣i hỏi,
Tôi cứ đứng nh́n
chúng măi.
Chúng không than văn về
thân phận,
Chúng không thao thức
trong đêm tối rồi khóc lóc v́ những tội lỗi
đă phạm,
Chúng không làm tôi khó chịu
v́ cứ bàn đến bổn phận với Thượng
Đế,
Chẳng con vật
nào bất măn, cũng chẳng con nào điên loạn v́
cơn sốt làm sở hữu sự vật,
Chẳng con nào quỳ
lạy trước con khác, hay trước con nào đă sống
cả ngàn năm trước đây,
Chẳng con nào đáng kính hay
đáng khinh nhất trần gian.
Như Walt Whitman đă nhận
xét, các thú vật không đ̣i hỏi. Chúng không nh́n đâu khác ngoài cái hiện
thời chỉ như thế.
Là mèo hay ḅ, là hổ hay nai, là cá hay chim, chúng đều
chỉ chú tâm đến ngủ, sinh sản, kiếm ăn,
kiếm chỗ ở và tồn tại.
V́ thế nên chúng b́nh thản,
không hành động với tâm thiên vị, không nh́n bên ngoài
mà chỉ sống trong hiện tại. Ngay khi con hổ ăn thịt con
nai, trái đất vẫn xoay vần; tất cả đều
điềm tĩnh và b́nh thản.
Thú vật chất phác, không
biết giả dối, không xoay sở để được
ḷng ai hay che đậy sự thật về chúng.
Những đứa trẻ
cũng vậy. Một đứa
trẻ sơ sinh không cảm thấy xa cách thế giới
chung quanh. Đôi khi chỉ cần
quan sát đặc điểm này ở trẻ thơ và thú vật
cũng đủ cho người lớn một cảm giác
tự do nhẹ nhơm.
Tại sao con người lại
không sống an b́nh và thanh thản như vậy được? Vấn đề là ǵ?
Vấn đề là con
người cứ tin chắc rằng có sự vật ǵ
bên ngoài họ phải đạt được th́ mới
cảm thấy đầy đủ trọn vẹn. Họ nghĩ rằng tim họ sẽ
chỉ được xoa dịu bởi một sự vật
ở đâu đó bên ngoài. Cho
nên họ phải chạy đôn đáo ở ngoài để
săn vật đó như đi săn mồi.
Con người đă có thói
quen nếu đi t́m là kiếm được nên hiểu những
hành động này rất rơ. Họ
quen thu thập của cải vật chất theo lối
đó rồi nên tin rằng muốn được những
ǵ họ cần cho tinh thần th́ cũng phải theo tiến
tŕnh trên. Nhưng muốn thỏa
măn con tim không phải là vấn đề đoạt
được cái ǵ. V́ vậy
nên họ mới bị lạc.
Văn hào Thoreau đă có nhận xét rằng của cải
th́ dễ có nhưng khó dẹp bỏ. Chúng thường chỉ là một
gánh nặng làm khổ người ta và gây thêm thèm muốn.
Bạn hăy thử bỏ qua một bên những
ham muốn nhỏ nhen để xét xem ḿnh thật sự cần
và khao khát những ǵ. Bạn sẽ
nhận diện ngay được nhu cầu của ḿnh và
cũng thấy ngay rằng những nhu cầu này rất dễ
thỏa măn. Thật ra con
người cũng như thú vật không cần ǵ cả,
không cần đoạt được cái ǵ ở “bên ngoài”
cả. Có cần ǵ th́ đă có
sẵn trong tay rồi. Thực
Tại luôn luôn ở ngay tại đây.
Về cái chết, con
người cũng khác thú vật.
Họ tưởng họ biết họ sẽ phải
chết. Nhưng chết không
phải là một tư tưởng để biết, mà
chỉ là cái ǵ người ta tưởng tượng
ra. Chết thật, hay bất
luận sự việc ǵ có thật, lúc nào cũng ở ngay
đây trong lúc này, chứ không lẩn trốn ở chân trời
nào trong tương lai. Nó chỉ
có thể xảy ra trong khoảng khắc này.
Thú vật không bối rối
về vấn đề này. Chỉ
có con người với những tư tưởng phức
tạp mới hoang mang, bối rối và than văn về thân
phận ḿnh. Chỉ v́ họ
tưởng rằng ở đây và trong giây phút này họ xa
ĺa tất cả.
Nhưng tư tưởng
của con người không thuộc về hiện tại,
không phải là cái thực tại mà họ sống qua từng
giây từng phút một.
Sống chết xảy
ra ngay tại đây, ngay trong lúc này. Có tỉnh thức trong lúc này th́ mới
thấy chẳng có ǵ để than thở cả.
Phật giáo không đ̣i hỏi
con người phải tin vào Thượng Đế hay
Kinh Thánh. Đúng vậy. Phật pháp không đề cập
đến vấn đề tin tưởng. Đó là một truyền thống
có từ hơn 2.500 năm nhưng không phải là một hệ
thống tín ngưỡng.
Bất cứ giáo lư hay truyền
thống nào muốn đưa con người đến sự
thật cũng không thể dựa trên tín ngưỡng, hay
khái niệm mà phải được đặt trên nền
tảng của sự nghiên cứu, thử nghiệm, và kinh
nghiệm trực tiếp của giây phút hiện tại.
Phần đông con người
đối diện với những vấn đề quan trọng
trong đời bằng cách xếp đặt trong đầu
một số tư tưởng và tín ngưỡng để
giải thích mọi sự việc cho chính ḿnh. Làm như vậy là để cố
sức t́m hiểu sự hiện diện của ḿnh và của
thế giới này.
Nhưng con người
đă không thành công với những phương tiện
trên. Tư tưởng và tín
ngưỡng đă không giải thích được những
vấn đề căn bản.
Cho nên người ta mới sống bằng những
khái niệm, tín ngưỡng và những mô h́nh của Thực
Tại. Thật ra, trong đáy
ḷng họ rất hoang mang sợ hăi.
Không có nghĩa là phải quăng bỏ
hết mọi tin tưởng.
Trong đời sống hàng ngày phải có một số
tin tưởng th́ mới sinh hoạt được. Phải tuân theo luật giao thông,
phải giữ vệ sinh. Những
tin tưởng này thực dụng và rất cần thiết.
Nhưng đối với những vấn
đề lớn như “Tôi từ đâu đến?” “Tôi sẽ
đi về đâu?” “Thế nào là Thực Tại?” “Cuộc
đời là ǵ?” th́ con người đành chịu bó
tay. Những câu chuyện
người ta bày đặt ra có an ủi họ được
trong chốc lát, nhưng rồi cũng chỉ đưa họ
đến hoang mang và phiền năo bởi v́ chuyện ǵ kể
cho ḿnh nghe th́ cũng đáng nghi ngờ.
Trước hết phải nhận thức
rằng đặt những câu hỏi như thế là sai lầm
v́ đầu óc con người, những khát vọng, sợ
hăi và suy đoán của họ tạo ra chúng chứ không phải
kinh nghiệm trực tiếp, không phải do từ chỉ
thấy biết mà ra.
Chỉ khi nào nhận ra tư
tưởng ḿnh hỗn độn th́ mới thôi trói buộc
ḿnh thêm. Nhưng những lối
con người tự trói buộc ḿnh cũng rất nhiều
và tinh tế.
Trên thế gian này lúc nào cũng
có h́nh tướng. Điều
này tự nhiên và b́nh thường, nhưng điều không
b́nh thường là con người cứ phải níu kéo
chúng. V́ lư do này, tốt hơn
hết là không nên tạo những h́nh tướng quá rườm
rà. Con người có khuynh
hướng tạo hết h́nh thể này đến h́nh thể
khác đến nỗi không c̣n biết ḿnh làm ǵ và để
làm ǵ nữa. Họ dễ bị
lạc trong h́nh tướng đến nỗi nghĩ rằng
h́nh tướng không những thật mà c̣n tối cần
thiết.
Mặt khác, nếu người
ta muốn bỏ hẳn h́nh tướng th́ chỉ là tự
lừa dối. Bất luận
có làm ǵ th́ cũng có h́nh tướng. Ngay cả trong một thế giới
không h́nh tướng, bao giờ cũng có h́nh tướng. Thật vậy, chỉ trong một
thế giới trống không th́ h́nh tướng mới có
thể phát hiện.
Bất luận có làm ǵ, sống
ra sao th́ cuộc đời và kinh nghiệm trong hiện tại
cũng có hương vị.
Nhưng thiền không phải là để ḿnh lạc
trong h́nh tướng hay tín ngưỡng.
Hoàn cảnh và con người luôn luôn lôi
kéo nên phải xét xem ḿnh làm ǵ, nghĩ ǵ, bám víu vào cái ǵ, sợ
mất cái ǵ. Nhiều lần
lập đi lập lại như thế sẽ kéo ḿnh trở
về với sự việc ḿnh đang làm trong hiện tại.
Người ta sợ là sợ tư
tưởng, tin tưởng và những ǵ tâm tạo ra. Điểm đặc biệt là
những khái niệm có liên quan đến bản ngă. Cho nên người ta mới vô t́nh
bị lạc trong những sự việc chẳng mấy
quan trọng, mới bị ch́m đắm trong mê lầm và
hoang mang.
Chỉ cần nh́n rơ th́ sẽ thoát khỏi
ngay.
(Xem tiếp PHẦN BA)