Không Như Bạn Tưởng
DƯƠNG GIA Phỏng Dịch
Phước
Quế Publications
PHẦN
BA
TÂM THUẦN TÚY
Bách Trượng, một vị
thiền sư Trung Hoa nổi tiếng ở thế kỷ
thứ 8, có lần nói rằng nếu người ta có thể
nhận ra rằng giác quan của họ và thế giới
bên ngoài không liên quan ǵ đến nhau th́ có thể giải
thoát ngay.
Điều này nghe thật
kỳ lạ. Ai cũng nghĩ
rằng có một thế giới bên ngoài phải nhờ
giác quan mới biết được. Ai cũng nghĩ “Ta ở trong này
nh́n, nghe, ngửi, sờ mó và nếm thế giới ở
ngoài đó.” Tính chất riêng rẽ
này được cảm nhận khá rơ rệt. Cảm giác này từ đâu mà
có? Nó từ ư thức mà ra, nghĩa
là ư thức có một khách thể (trong trường hợp
này là thế giới bên ngoài) và một chủ thể (ở
đây là “tôi” ở trong này).
Nhưng chủ thể và khách thể đều là những
thực thể riêng rẽ do tâm tạo ra. Trên thực tế, không có ranh giới
ngăn cách đây và đó, “tôi” và “thế giới bên
ngoài.” Cả chủ thể và
khách thể đều là ảo tưởng do tâm đặt
ra.
Trong thiền học có một
cách ngôn như sau, “Sự vật nào qua cổng mà vào đều
là kẻ lạ.” Cổng là
giác quan và bất cứ sự vật nào được cảm
thụ qua giác quan đều như xa lạ, cách biệt với
chủ thể. Tất cả
chỉ v́ con người đă tạo một khái niệm
phân biệt giác quan và thế giới bên ngoài.
Bách Trượng không thấy
hai sự vật đó có liên hệ ǵ với nhau v́ như
thế là công nhận có hai thực thể - tôi ở trong
này và thế giới ở ngoài đó và bằng cách này hay
cách khác chúng có thể liên hệ với nhau. Bách Trượng quả quyết
rằng trên thực tế không phải là như vậy.
Thực Tại luôn ở sát bên mỗi
người trong từng khoảng khắc hiện tại.
Nó chỉ như thế này – là cái kinh nghiệm trực
tiếp, sôi nổi, thân mật, đang diễn biến,
không qua cổng nào mà vào. Nó
không hề ở bên ngoài th́ làm sao mà vào? Đó chính là Tâm. Cứ gọi kinh nghiệm đó
là “cái máy bay” hay “con chim” hay “t́nh yêu” hay “sợ hăi” th́ cũng
vẫn chỉ là cái như thế phát hiện trong tâm.
Tuy nhiên, con người thường đắp thêm một
cái ǵ lên trên kinh nghiệm trực tiếp và có thật
đó. Kinh nghiệm được
phóng lên trên rồi nới rộng thêm ra qua thời gian và
không gian. Cứ như thế
người ta đă tạo nên chủ thể và khách thể,
người biết và vật được nhận biết. Từ những thực thể
này, nảy sinh trong tâm những cảm giác ưa thích và chán
ghét. Thế nên con người
mới lầm tưởng thế giới mà họ tạo
trong tâm và phóng ra “bên ngoài” là Thực Tại.
Kết quả là con người giao tiếp
với thế giới bên ngoài không phải như một ảo
tưởng do ḿnh tạo ra mà như Thực Tại. Họ sống cuộc đời
của họ trong óc tưởng tượng, phản ứng
với những khái niệm của họ về thế giới
thay v́ chú tâm đến kinh nghiệm trực tiếp và có thật.
Mặc dầu vậy, bất luận
người ta có giác ngộ hay không th́ cũng vẫn nh́n thấy
thế giới như nhau.
Không có khác biệt ǵ trong lối cảm nhận. Điểm khác biệt là người
đă giác ngộ không bỏ Thực Tại qua một bên
để mà chạy theo khái niệm và tư tưởng của
ḿnh về Thực Tại.
Dù Thực Tại thể hiện dưới
nhiều h́nh thức, nó vẫn chỉ là một kiểu
như thế và không thể khác hơn. Ai nh́n thấy nó cũng nh́n thấy
như nhau.
Thế giới
chung quanh đa dạng không phải là không thật. Phi cơ bay trên cao, trang sách bạn
đang đọc đều có thật. Nhưng tin rằng thế giới
của chủ thể và khách thể là Thực Tại th́ sẽ
lạc ngay trong ham muốn, sợ hăi và hỗn loạn. Xét cho kỹ th́ sẽ thấy ngay
rằng sống như vậy rất khó khăn.
Ngược lại, người ta phải
hiểu rơ rằng có một lối nh́n Thực Tại khác
hẳn, chỉ dựa độc nhất trên sự nhận
thức.
Người đă giác ngộ nh́n Thực
Tại là như thế. Họ
thấy giác ngộ chẳng qua chỉ là không bị cái thế
giới của khái niệm mà họ đă tạo ra phỉnh
lừa thôi.
Ư thức chia thế giới thành cái này
cái khác, “ta ở đây” và “vạn vật ở chỗ khác
bên ngoài.” Một khi đă hiểu
quá tŕnh hoạt động của ư thức th́ hiểu ngay
rằng chính nó đă tạo ra khái niệm “tôi” và “người
khác,” chủ thể và khách thể.
Khái niệm này chỉ là ảo tưởng.
Người đă giác ngộ không bị
khái niệm đối đăi này mê hoặc. Tuy nhiên không phải v́ thế mà ảo
tưởng tự nhiên biến mất. Nó vẫn c̣n đó nhưng phải
biết thừa nhận nó là ảo tưởng. Thế cũng đủ
đưa đến giải thoát.
Đức Phật đă có nói, “Một
người đạp phải con rắn và rùng ḿnh kinh
hăi. Đến khi nh́n kỹ ra
mới thấy chỉ là một mẩu giây thừng. Cũng như thế, một ngày
kia khi ta nhận ra rằng cái “tôi” chẳng thể t́m ra ở
đâu th́ mới biết ḿnh lầm và bao nhiêu băn
khoăn sợ hăi liền tiêu tan hết.”
Vậy th́ cái ǵ đă thay đổi? Thật ra th́ chẳng có ǵ thay
đổi cả. Sợi giây
thừng vẫn nằm đó, cái chân vẫn ở
đó. Nhưng người ta
không t́m đâu ra cái “tôi” cả.
Một khi nh́n rơ ra rồi th́ cảm giác “tôi” cũng tự
nhiên tan biến mất. Không
c̣n cái tôi len vào mà thao túng hay điều khiển.
Những người đă giác ngộ
không tự nhiên biến mất.
Họ cũng chẳng quên sinh hoạt b́nh thường
như mọi người.
Nhưng họ biết rằng hại người là
hại ḿnh. Cuối cùng, họ
hiểu rằng tất cả chỉ có “như thế này.”
Kinh nghiệm của bạn lúc nào cũng
là như thế này, ngay tại đây, ngay trong lúc này. Không
có thế giới bên ngoài riêng rẽ, không có giác quan riêng rẽ,
và v́ vậy không có liên hệ giữa hai sự vật. Bởi v́ làm sao một vật có
thể liên hệ với chính nó được?
Có một câu thơ nữ
thi hào Emily Dickinson viết như thế này: “Sự việc này sẽ không bao
giờ trở lại nữa.” Nó thuộc bài thơ sau đây:
V́ sự việc
không bao giờ trở lại nữa
Nên cuộc
đời mới thi vị.
Tin điều
ḿnh không tin
Thật vô vị.
Nếu có
Th́ cùng lắm
cũng chỉ là một t́nh trạng hao ṃn
Nên càng gây
thêm thèm muốn
Một sự
khao khát trái ngược.
Bài thơ này làm rung động
ḷng người ao ước được sống vĩnh
viễn, không phải chết, không phải rời khỏi
thế gian này.
Thọat đầu câu “V́ sự việc không bao giờ
trở lại nữa” dường như tóm tắt quan niệm
của nền văn hóa hiện thời về đời
người. Người Phật
tử lại có vẻ nghĩ khác rằng con người cứ
tiếp tục tái sinh măi. Có phải
đúng như vậy không?
Không phải.
Nghĩ vậy th́ cũng chẳng khác ǵ nghĩ rằng
con người sống măi.
Đó chỉ là một h́nh thức khác của thuyết
bất diệt. Đức Phật
không bao giờ nói như vậy.
Thiền sư Nhật Bản Đạo
Nguyên nhận xét rằng giống như thanh củi cháy rồi
th́ không bao giờ trở lại thành củi nữa, người
chết rồi cũng không sống lại được
nữa. Vậy th́ tái sinh là thế
nào? Và câu thơ của Emily
Dickinson có ư nghĩa ǵ?
Bà Dickinson viết về sự việc chỉ
như thế này sẽ không bao giờ trở lại nữa. Bạn đang ngồi đây
đọc những hàng chữ này, nhưng sẽ không bao giờ
ngồi như thế này, với những tư tưởng
và cảm giác này nữa. Không
có cái ǵ trong sự việc như thế này sẽ giống
hệt như thế nữa.
Ngay cả khi bạn bỏ cuốn sách này xuống và
rời căn pḥng, bạn cũng không giống con người
bạn khi bước vào lúc trước. Sự việc như thế này
sẽ không bao giờ trở lại nữa. Bao giờ cũng như vậy.
Sự việc này sẽ không bao giờ
trở lại nữa chính là ư nghĩa của sự tái
sinh. Cả thế gian này, kể
cả con người, đều tái sinh trong từng khoảng
khắc. Tuy nhiên, có một
điểm đáng để ư là những biến chuyển
xảy ra hoàn hảo đến nỗi không có cái ǵ có thực
chất c̣n lại, không có “cái tôi” cũng không có thế giới
bên ngoài nào cả.
Khi nào đề cập đến đầu
thai th́ người ta nghĩ đến một bản ngă,
một “cái tôi” tồn tại với thời gian. “Sau khi chết, tôi sẽ đầu
thai thành người khác.”
Như thế là vô lư.
Không ai có thể là một người khác khi họ
đă là “họ” trong lúc này.
Không một vật nào có thể là cái ǵ khác hơn cái
nó đang là trong lúc này.
Những tư tưởng tương
tự đều do tâm người khao khát được
trường tồn trong khi trên thực tế không có vật
nào trên thế gian tồn tại măi.
Tuy nhiên, giây phút tuyệt diệu, quư báu
và huy hoàng này luôn luôn có bây giờ, bây giờ, bây giờ và
tái sinh nhiều lần, từng khoảng khắc một. Măi măi cũng chỉ có như thế
này, mà không có khoảng khắc khác nào nữa. Theo lời Emily Dickinson, chính v́ vậy
“nên cuộc đời này mới thật thú vị.”
V́ đời người phù du tạm bợ,
bao giờ cũng chỉ có trong giây phút này và không bao giờ
trở lại nữa nên mới đáng quư. Đó là cuộc đời sôi nổi
mà người ta trực tiếp chứng nghiệm và biết. Thế cũng là đủ.
Trong bài thơ trên của Dickinson, có hai
câu khá kỳ lạ: Tin
điều ḿnh không tin / Thật không thú vị. Điều đó là điều
ǵ?
Con người muốn tin vào sự
trường cửu. Ḷng họ
khao khát được như thế bởi v́ bên dưới
những tư tưởng và tin tưởng họ thật
sự không tin có điều đó.
Dù có thừa nhận hay không th́ người
ta cũng chỉ nh́n thấy sự tạm bợ, sự vật
đến rồi đi, biến động và chuyển
động không ngừng. Mỗi
tế bào và nguyên tử trong cơ thể, mỗi cảm
giác và tư tưởng đều thay đổi. Không có ǵ kéo dài dù chỉ trong một
khoảng khắc. Muốn t́m
sự cố định th́ t́m đâu mà thấy. Tuy nhiên con người vẫn sống
như thể cuộc đời họ kéo dài măi.
Nhưng trong tận đáy ḷng họ biết
họ không tin như vậy.
Họ mơ đến một ốc
đảo, một cơi trời ở đó họ được
hạnh phúc vĩnh viễn nhưng rồi lại tuyệt
vọng v́ chẳng bao giờ t́m thấy. Ốc đảo đó không bao giờ
t́m thấy được ở đây, mà con người
lại chỉ biết có ở đây.
T́m hiểu cho kỹ th́ ở thế gian này con người
chỉ biết có thay đổi, toàn là thay đổi cho
nên họ sẽ thấy rơ rằng họ chỉ thuộc về
nơi này ở đây. Lúc ấy
họ sẽ hiểu rơ giá trị của cái thế giới
trống rỗng nhưng sống động này, chính v́
trong đó không có sự vật ǵ tồn tại.
Cái mà người ta nên ôm giữ để
làm dịu nỗi đau trong ḷng là tính chất nhất thời. Họ không hiểu rằng không thể
nào từ tánh không mà có được cái ǵ rắn chắc,
cho nên bám víu vào thế gian làm ǵ, đau khổ và níu kéo cái
không hề có cũng như sẽ không bao giờ có làm
ǵ? Chỉ nên tỉnh thức
trong giây phút phù du hiện tại.
Sống như thể cuộc đời
này phải chấm dứt là sống trong sợ hăi. Có ư nghĩ rằng ḿnh sẽ
đi tới một điểm, nơi mà mọi sự vật
đều hoàn hảo, hoặc nơi mà mọi sự việc
đều ngừng rồi bắt đầu lại, là phủ
nhận thế gian này, nơi mà vạn vật đều
biến chuyển liên tục, là phủ nhận sự sống
và ư thức.
V́ tin điều họ thật sự
không tin nên con người sống trong sự tự kiềm
chế, nên sống không trọn vẹn. Nguồn sống tuôn trào từ sự
kiện con người không quan tâm đến cái ǵ nuôi
dưỡng ḿnh, bằng cách sống với kinh nghiệm
hiện có mà không bị ham muốn, tưởng tượng
và tin tưởng trói buộc.
Có xét kỹ hơn một chút kinh nghiệm
sống hàng ngày và bỏ qua một bên những khái niệm,
những tưởng tượng th́ sẽ thấy ngay cuộc
đời hiện tại.
Nhưng như Emily Dickinson đă thốt lên, “Sống
cùng lắm chỉ là một t́nh trạng hao ṃn, nghĩa
là luôn luôn lùi xa nên con người không thể nắm giữ
được.
Cho nên Dickinson nói thêm, “Nên càng gây thêm
thèm muốn /Một sự khao khát trái ngược.” Chỉ v́ tâm mơ ước nắm
được một bản ngă trường cửu trong
một thế giới do ḿnh tưởng tượng ra nên
mới tạo nên một sự thèm muốn đi ngược
lại sự sống. Con
người muốn sự vật được đẹp,
dễ chịu, thoải mái và cứ giữ được
như thế măi.
Có nắm được cái ǵ th́ con
người cũng thấy ngay là nó vô nghĩa nên họ sợ
rằng tất cả đều vô nghĩa. Họ không hiểu rằng nếu
không dang tay ra với cái ǵ không có th́ làm ǵ có cảm giác vô nghĩa.
Cái mà con người thật sự cần
và đă có mà không bao giờ ngờ tới gọi là cái
không thể mong mỏi, cái không mang nhăn hiệu. Cái đó là như thế này.
Khi Đức Phật được yêu cầu tóm tắt
giáo lư của ḿnh trong một tiếng th́ ngài nói “tỉnh
giác.” Không phải tỉnh giác
sự việc ǵ, tư tưởng ǵ hay cảm giác ǵ
đặc biệt mà chỉ là trạng thái tỉnh giác thuần
túy trước khi tư tưởng và cảm giác ùa đến. Cũng là sự tỉnh giác mà
Đức Phật nói đến khi ngài giảng, “Tỉnh
giác là con đường đưa tới sự bất tử. U mê là con đường
đưa tới cơi chết.
Những kẻ tỉnh giác không chết. Những kẻ u mê chưa chết
mà như đă chết rồi.”
Con người khổ v́ hoang mang, sợ hăi, ưa và
ghét. Nỗi khổ thứ nhất
là biết ḿnh sẽ chết.
Kiến thức này in sâu trong tâm khảm nhưng con
người sợ mà không dám đối diện.
Một khi biết ḿnh có vấn đề sợ chết
th́ con người tự hỏi: Sống có ư nghĩa ǵ? Sống
th́ vui thú ǵ khi cuối cùng cũng đều đưa
đến số không? Làm ǵ
th́ rồi cũng tan biến hết. Cho nên người ta mới hoang
mang sợ hăi.
Khi ngài nói tỉnh giác là con đường đưa
đến sự bất tử, Đức Phật không chỉ
nói bóng mà c̣n đề cập đến sự việc
đang diễn tiến. Ngài chỉ
đến sự việc mà con người không thể tin
tưởng, nắm giữ, h́nh dung hay khái niệm hóa
được nhưng vẫn nh́n thấy được.
Trong bài thơ mang tựa đề “Động
Sơn Tông Chỉ”
của thiền sư Trung Hoa Động Sơn, ông nói
đến sự tỉnh giác này.
H́nh ảnh tấm gương được dùng
để mô tả nguồn gốc của vạn vật. Mọi tư tưởng và cảm
giác hiện ra như những h́nh ảnh trên tấm
gương: sống động nhưng không có thực chất. Tấm gương không nắm giữ
được mới là thật trong khi những vật rời
rạc hiện trong gương lại không thật.
Hăy thử xét hành động đơn giản ngửi
một đóa hồng. Người
ta nh́n thấy bông hồng, vuốt ve nó, đem lại gần,
rồi ngửi hương của nó qua lỗ mũi. Người ta gọi thế là ngửi
bông hồng nhưng thật ra đó chỉ là khái niệm
ngửi bông hồng chứ không phải kinh nghiệm ngửi
bông hồng. Nói rằng ngửi
mùi thơm của bông hồng th́ đúng hơn.
Như thế th́ hành động ngửi bông hồng xảy
ra lúc nào? Quan sát thật kỹ
th́ những cách giải thích thông thường đều
không đứng vững. Mùi
thơm có ở trong bông hồng không? Nếu thế th́ làm sao mà ngửi
được? Bạn ở
đây mà bông hồng ở tận ngoài đó. Mặt khác, nếu bỏ bông hồng
đi hay bỏ khoảng không khí giữa bạn và bông hồng
đi th́ cũng vẫn không ngửi được.
Vậy mùi thơm có ở trong bông hồng không? Hay nó ở trong mũi bạn? Trong khoảng không khí giữa bông
hồng và bạn? Nếu không
có ai ngửi th́ nó có ở đấy không? Nếu vậy th́ làm thế nào
để biết?
Vậy th́ mùi thơm có ở trong óc bạn không? Nếu thế th́ cần ǵ phải
có bông hồng?
Cuối cùng th́ hành động ngửi bông hồng hay
bất cứ hành động nào có liên quan đến một
chủ thể và một khách thể đều hoàn toàn không
vững chắc và không thể giải thích một cách thỏa
đáng.
Dần dà người ta có thể hiểu kinh nghiệm
ngửi bông hồng đưa đến những hậu
quả ǵ. Nó như tấm
gương, nghĩa là nguồn gốc của mọi kinh
nghiệm đều do tâm. Cho
nên ngửi, nh́n, nghe, sờ mó hay suy nghĩ không xảy ra ở
đâu cả. Không ở
nơi nào cả chính là thực chất của tâm.
Con người ngây thơ tưởng rằng tâm chuyển
những đối tượng đến cho họ cứ
như thể chúng có thật.
Trông có vẻ như vậy nhưng sự thật là
không có vật nào được tạo ra cả. Vật lư học cho biết rằng
cuốn sách và bàn tay bạn đang cầm cuốn sách đều
biến đổi trong mỗi khoảng khắc. Có những phân tử và nguyên tử
trao đổi âm điện tử (electron) và năng lượng
với nhau ở một vận tốc rất cao. Cho nên không có lúc nào mà có cùng một
cuốn sách hay cùng một bàn tay.
Tất cả được thu gọn lại chỉ
c̣n năng lượng và chuyển động.
Những bậc thiền sư Phật giáo thuở
xưa, dù không được biết đến những
khám phá của khoa vật lư, cũng đă hiểu được
tính chất hoàn toàn vô thường của vạn vật. Không có vật nào có thể trụ
trong một khoảng khắc nào.
Từng giây từng phút lại có một thế giới
mới.
Tại sao thế giới vật chất lại
như vậy? Bởi v́ có
như thế th́ mới chứng nghiệm được
nó. Đó là một kinh nghiệm
của tâm. Tâm là nguồn gốc
của thế giới này.
Nhưng tâm này không phải là tâm b́nh thường của
con người, cái tâm chỉ tạo ra sự vật rồi
gắn nhăn hiệu lên trên như “cuốn sách này”, “bông hồng”,
“mùi thơm,” v.v... Không thể chối căi rằng những vật
này đều có thật. Tuy
nhiên nếu nghĩ rằng Thực Tế chỉ là như
vậy th́ thật là sai lầm.
Những vật này chỉ là khái niệm của con
người về Thực Tại.
Từ bao nhiêu ngàn năm con người vẫn chỉ
đi t́m một lối sống để tránh được
phiền năo. Cho nên họ mới
đặt ra bao nhiêu là triết lư, tôn giáo, giả thuyết
chính trị, v.v... Tuy vậy
con người vẫn u mê, vẫn đau khổ. Thế nghĩa là thế nào?
C̣n đi t́m một cơi thanh tịnh, một triết lư
hay ǵ đi nữa và c̣n tin tưởng rằng có thể
t́m được cái ǵ ở ngoài đó th́ c̣n thất vọng. Làm ǵ có chuyện đó. C̣n nghĩ thế th́ c̣n quá non nớt,
ngây thơ hoặc trở nên tàn nhẫn, cộc cằn và yếm
thế.
Người ta quên mất rằng sở dĩ đi
đến t́nh trạng này là v́ họ cứ suy nghĩ. C̣n bám víu vào cái ǵ th́ trong tâm c̣n nghi
hoặc và tuyệt vọng. Sở
dĩ tuyệt vọng là v́ trước hết cứ tin chắc
vào khái niệm rằng có một giải đáp, một triết
lư hay một vật hoàn hảo nào có thể giải quyết
được hết.
Nhưng v́ không có nên người ta phản ứng
như thể đời người vô nghĩa.
C̣n bị lạc trong nơi chốn này th́ chẳng thể
nào vấn đề nan giải này của con người
được giải quyết.
Hoặc phải chấp nhận rằng con người
sống trong một thế giới vô nghĩa, hoặc phải
từ bỏ trí năng để sống trong một thiên
đàng giả tạo. Cả
hai lối đều là địa ngục. C̣n lối nào khác nữa không?
Đối với Bách Trượng, con người phải
khổ v́ họ tin vào khái niệm thực chất, nghĩa
là họ tin rằng những vật họ thấy, nghe, ngửi,
nếm, sờ mó, và nghĩ đến đều có thật,
chắc chắn và bền bỉ.
Nhưng sự tỉnh giác thuần túy không đối
tượng cho người ta thấy một Thực Tại
khác hẳn.
Bách Trượng không chỉ nói về liều thuốc
bất tử một cách bóng bảy và văn hoa mà c̣n nói
đến sự tỉnh giác rằng không có vật ǵ chết
đi và cũng không có vật ǵ được sinh ra bao giờ.
Nh́n ra sự kiện này th́ sẽ kinh nghiệm thế
giới một cách khác hẳn.
Mọi phiền năo như hoang mang, đau khổ, ham
muốn, ưa, ghét, sợ chết sẽ chấm dứt v́
người ta sẽ không t́m vật ǵ ở bên ngoài để
thỏa măn họ nữa. Không
có bên ngoài mà cũng chẳng có bên trong. Trong ngoài kết thành một khối.
Có nhiều lối xem xét liều thuốc bất tử
này – cái ư thức rằng không có sự vật nào chết,
nhưng hăy thử lấy hai thí dụ sau đây. Thí dụ thứ nhất về Long
Thọ khi ông nói rằng không có vật ǵ vô thường. Mới nghe thấy lạ và có vẻ
mâu thuẫn với giáo lư Phật v́ một trong những
điểm then chốt của Phật pháp là tính cách vô
thường. Vậy mà Long Thọ
lại nói rằng muốn hiểu cho tường tận ư
nghĩa của sự vô thường th́ không một vật
ǵ vô thường.
Thế nghĩa là sao?
Đối với Long Thọ, tin rằng vạn vật
đều vô thường là mâu thuẫn. Trước hết, người
ta cho rằng có những vật riêng rẽ và trường
tồn (nghĩa là những vật tuyệt đối); sau
đó họ cho rằng chúng vô thường (nghĩa là
tương đối).
Nhưng người ta không thấy rằng họ vẫn
bám víu vào khái niệm thực chất, mà chưa hiểu tính
chất hoàn toàn của sự biến đổi, của sự
vô ngă.
Long Thọ nói rất rơ rằng tính chất vô thường
hoàn toàn và tuyệt đối.
Thế giới không gồm những vật luôn luôn biến
chuyển mà chỉ có biến chuyển. Không có vật nào hiện ra rồi
biến đi trong ḍng biến chuyển đó mà chỉ có
ḍng biến chuyển.
Bồ Đề Đạt Ma, tổ thứ nhất
của ḍng thiền Trung Hoa, có một lối nh́n khác. Bàn về giới luật Phật
giáo tránh giết sinh vật, ông nói “ Không có khái niệm, tức
là giới không giết sinh vật.”
Nói một cách khác, có quan niệm rằng một vật
có thể chết đi tức là tin rằng có những thực
thể tồn tại măi măi sinh rồi diệt.
Không thể phủ nhận rằng có những h́nh
tướng sinh rồi diệt.
Nhưng cho rằng có những vật trường tồn
và chúng sinh rồi diệt th́ thật là tự lừa dối.
Khi Đức Phật nói rằng những kẻ mê lầm
sống như những người đă chết rồi
có nghĩa là c̣n tin rằng những h́nh tướng sinh rồi
diệt có thể tồn tại măi th́ c̣n sống trong hoang
mang sợ hăi và c̣n cho rằng cuộc đời vô nghĩa. Gánh nặng này mà con người
phải mang đều do khả năng trừu tượng
hóa những kinh nghiệm trực tiếp của họ
thành sự vật và tư tưởng. Họ bị lôi cuốn vào trong ảo
tưởng này rồi run sợ rằng ḿnh sẽ phải
chết, rằng tất cả phải tan biến đi và
tệ hơn cả rằng họ thật sự chẳng
hiểu ǵ cả. Cho nên họ
bỏ mất cơ hội nh́n thấy chỉ như thế
này, tức là Thực Tại sống động. Theo lời Đức Phật, họ
coi như “đă chết rồi.”
Một h́nh ảnh khác trong kinh sách Phật được
dùng để biểu lộ sự tỉnh giác không đối
tượng gọi là Cá Vàng.
Đấy không phải là h́nh ảnh điển h́nh của
một điều ǵ có thể nắm giữ được. Thật vậy, thuật ngữ
này được dùng để chỉ vật ǵ mà người
ta không thể tưởng tượng được.
Người ta không biết nó là cái ǵ v́ nó không là vật
ǵ đặc biệt. Cũng
không phải là cái ǵ gọi tên được, chứ đừng
nói đến có liên lạc với được. Tuy nhiên nó lại khiến người
ta măn nguyện.
Nhưng v́ nó không ở đâu cả nên chẳng thể
nào t́m được. Cho nên chỉ
cần thả luới xuống là đủ.
Thiền sư Đạo
Nguyên nói, “Thực Tại là ǵ?
Là một cột băng được cấu tạo
trong lửa.”
Nghe thật vô lư nhưng Thực
Tại là thế. Con người
sống như thế mỗi ngày.
Ở đây Đạo
Nguyên không chỉ dùng một ẩn dụ thi vị mà c̣n chỉ
thẳng vào kinh nghiệm thực tế của giây phút
này. Thực Tại phát hiện
như thế trong đời người, từng giây từng
phút một, như cột băng tạo thành trong lửa.
Chẳng hạn, hăy xét kư ức
con người. Khi hỏi phần
nào của kinh nghiệm tâm trí tồn tại lâu nhất th́
người ta thường đáp là kỷ niệm. Nhưng có mấy khi mà kỷ niệm
được nhớ một cách trung thực. Chúng hợp với nhiều tư
tưởng và vật khác rồi cũng biến đổi
theo thời gian. V́ thế
người ta có thể gợi lại nhiều kỷ niệm
rất rơ ràng nhưng lại sai hoàn toàn hay từng phần. Ngay cả những kỷ niệm
chung cũng không chắc ǵ là trung thực.
Kỷ niệm như những
cột băng tạo ra trong ngọn lửa của những
tư tưởng. Chúng có vẻ
chắc chắn và lâu dài dù người ta có thay đổi
tâm trạng hay chồng chất thêm kinh nghiệm và khái niệm. Họ mang chúng theo qua bao năm
tháng mà không biết rằng có nhiều phần đă rơi
rụng và được thay thế bằng nhiều phần
khác.
Kỷ niệm chỉ là một phương tiện
con người dùng để sắp xếp thế giới
cho gọn gàng trong tâm họ.
Trông chúng có vẻ chắc chắn, có thật, riêng rẽ,
không thay đổi và trường cửu, nhưng chúng cũng
biến đổi như mọi h́nh tướng khác.
Sự thật là không có sự vật nào đứng bất
động. Vạn vật
lưu chuyển. Kỷ niệm
và t́nh cảm cũng thế, cũng như mọi khía cạnh
khác của tâm.
Thế nhưng người ta vẫn tiếp tục
nghĩ rằng người này đặc biệt như thế
này, xấu hay tốt, buồn hay vui rộng lượng
hay keo kiệt, thân thiện hay lạnh nhạt. Dù người này đă thay đổi
nhưng người ta không thấy bởi v́ những đối
tượng của tâm trở thành như những cột
băng – cứng nhắc và không lay chuyển – và họ chỉ
chú trọng đến chúng mà bỏ quên Thực Tại.
Thoạt tiên, con người đóng băng cuộc
đời của họ và của những người
chung quanh như vậy, rồi lưu truyền những kỷ
niệm này hết thế hệ này qua thế hệ
sau. Cứ như thế họ
đưa biết bao kẻ vô tội vào ṿng điên dại
của họ.
Ở nhiều nơi trên thế giới, người
ta truyền những mối thù dai dẳng cả mấy
trăm năm. Dù những
người ngày nay c̣n sống không biết v́ lư do ǵ chiến
tranh khởi sự, họ cứ sửa đổi kỷ
niệm để giải thích và tiếp tục cuộc
chiến. Cứ như thế
mà người ta kéo dài bạo động, phiền năo,
đau khổ không những cho riêng ḿnh mà c̣n cho cả những
thế hệ sau.
Lịch sử chiến tranh của nhân loại là gia
tài của tư tưởng và tín ngưỡng. Tâm người đă tạo ra
chúng tưởng chừng như những tư tưởng,
tín ngưỡng và kỷ niệm có thật và cần phải
hành động theo. Thật ra
họ nên quên đi những điều họ nghĩ, tin
tưởng, nhớ lại hay tưởng tượng mà
nh́n thẳng vào kinh nghiệm trực tiếp. Chỉ có thế họ mới
thoát khỏi mê lầm.
Con người không những chỉ tạo cột
băng từ những kỷ niệm mà c̣n từ những
tư tưởng, cảm giác và mọi vật xuất hiện
trong tâm.
Hăy lấy thí dụ một xoáy nước. Người ta có thể quan sát, ca
tụng và bàn tán về nó nhưng ít khi họ biết rằng
cái mà họ gọi là “xoáy nước” không phải là một
vật ǵ nhất định.
Cái xoáy nước trong hồ hay sông không giữ nguyên
một h́nh dạng. Nó trở
nên nông dần và những phân tử nước biến
đổi liên tục. Không lúc
nào có thể t́m được hai h́nh dạng của xoáy
nước giống hệt nhau.
Tuy vậy người ta vẫn coi xoáy nước là
một vật, một cột băng tạo thành trong lửa.
Dù tâm người nghĩ sự vật vô thường,
họ vẫn tưởng tượng đến những
vật cố định, thường hằng. V́ cứ bám vào quan niệm này nên họ
không nhận ra rằng thật sự không có sự vật
nào cả. Họ cứ sống
trong tin tưởng rằng có cột băng tạo thành
trong lửa.
Thế ngọn lửa này là ǵ?
Lửa này là tâm, là sự chuyển động không ngừng,
là ḍng lưu chuyển, là biến chuyển. Nhưng v́ tất cả đều
vận chuyển nên tâm họat động mà như thể
không có ǵ chuyển động.
Cứ xét thật kỹ th́ sẽ thấy rằng tất
cả đều như xoáy nước, nghĩa là không có sự
vật nào cả mà chỉ có sự biến chuyển. Nếu người ta gia tăng vận
tốc th́ qua nhiều triệu năm ngay cả một tảng
đá cũng có thể sinh và diệt như một xoáy
nước.
Có một điểm vi diệu hơn nữa cần
được nêu lên. Chỉ
v́ quy ước nên những tiếng xoáy nước và
đá được dùng nhưng thật ra chỉ có sự
biến đổi, chỉ có lửa. Không có vật rắn chắc và
thường hằng nào là “đá” hay “xoáy nước”
đang biến đổi cả.
Thật ra không có vật đặc biệt nào là
đá, xoáy nước, bạn hay tôi.
Người ta tưởng rằng những cột
băng cứng gịn tạo trong tâm người – những cột
băng như mèo, đá, xoáy nước, và “tôi” – là những
thực tại riêng rẽ và bền bỉ rồi chỉ
chú tâm vào chúng thôi mà quên mất ngọn lửa, tức là tâm
của họ, và cũng quên ngay cả rằng băng cũng
là lửa thuần túy.
Ngày nay, người ta bàn căi
rất nhiều đến ư thức, nhưng thật ra họ
bàn căi nhiều về vật chất, nghĩa là về bộ
óc, giây thần kinh, diện tiếp hợp thần kinh
(synapsis), v.v... hơn là về ư thức. Điều này có hơi kỳ lạ
v́ đă là người ai cũng quen thuộc với ư thức
v́ lúc nào nó cũng ở sát một bên. Cứ lúc nào chú ư đến th́ thấy
nó ngay. Thế mà người
ta vẫn cho là ư thức bí hiểm và khó hiểu.
Thật ra người ta cũng
rối rắm về vật chất chẳng kém ǵ về ư
thức. Phần nhiều, vật
chất được coi là nền móng của Thực Tại. Nhưng như thế là sai lầm. Có xét kỹ th́ mới thấy rằng
vật chất mới trừu tượng chứ không phải
tâm hay ư thức.
Vật chất được
cấu tạo bằng nguyên tử.
Nhưng c̣n nguyên tử th́ sao?
Nh́n gần hơn th́ thấy có âm điện tử
(electron), dương điện tử (proton) và trung điện
tử (neutron). Tiến gần
hơn nữa th́ khám phá ra rằng proton và neutron được
tạo thành bởi những quark. Tất cả những phần tử
này không thể được gọi là vật chất
như người ta thường định nghĩa, tức
là phải có những đặc tính vật lư như khối
lượng, năng lượng, vị trí và động
lượng. Điện tử
và những hạt cơ bản trong nguyên tử (subatomic
particles) khác đôi khi không có những đặc tính này.
Thí dụ, người ta
không định được vị trí của một
electron nếu không đi t́m nó.
Điều này nghe không có vẻ lạ cho đến
khi họ nhận thấy rằng một khi đă t́m thấy
vị trí của electron rồi th́ lại không biết ǵ về
động lượng của nó (nghĩa là tích của khối
lượng, vận tốc và hướng). Cho nên họ lại đi t́m động
lượng. Và khi họ t́m ra
động lượng th́ lại mất đi vị trí
hiện thời của nó.
Nói cách khác, một electron
dường như không có những đặc tính tách rời
khỏi ư thức của con người về những
đặc tính đó. Rơ ràng là
người ta không thường nghĩ về vật chất
như vậy, nghĩa là như một vật có chất
lượng và tách rời khỏi tâm.
Thật thế, mỗi lần
đi khảo cứu xem vật chất được cấu
tạo thế nào th́ đều thấy nó bị vướng
mắc rối beng trong ư thức.
Nhận xét này đă khiến nhà vật lư và thiên
văn học Anh Quốc Sir Arthur Eddington viết như sau,
“Vật lư học là môn học khảo cứu về cấu
trúc của ư thức. Vạn vật
trên thế gian đều do tâm tạo ra.”
Có nhiều thí dụ khác cho
thấy tâm và vật chất ḥa hợp với nhau. Có cuộc thí nghiệm nổi tiếng
về những electron được bắn vào một tấm
màn có hai kẽ hở ở trên.
Khi người ta không chú trọng đến việc
nhận diện xem electron đi qua kẽ hở nào th́ trên bức
màn thấy một loại mẫu gọi là mẫu sóng giao
thoa. Nhưng khi người ta
quan sát xem electron đi qua kẽ hở nào th́ mẫu trên bức
màn thay đổi hoàn toàn để trở thành một mẫu
nhiễu xạ. Chỉ có ư thức
xem electron đi qua kẽ hở nào mà thay đổi hẳn
kết quả cuộc thí nghiệm.
Vấn đề của
con người đối với vật chất khác với
ư thức ở điểm là khác với ư thức, họ
không thể trực tiếp chứng nghiệm được
vật chất mà phải đi qua tâm. Người ta chứng nghiệm
một cách trực tiếp và tức th́ cái như thế
này – đó chỉ là một kinh nghiệm của tâm, không
phải là một kinh nghiệm vật chất.
Nói tóm lại, không thể
nào có thực tại vật chất tách rời khỏi ư thức. Tuy nhiên, chưa rơ rằng có cần
phải có vật chất không mới chứng nghiệm
được ư thức.
Nh́n vào thế giới vật
chất th́ người ta chỉ thấy vô số vật
thể riêng rẽ, rơ ràng khác biệt nhau và khác biệt với
“tôi”, kẻ quan sát. Chúng cũng
có vẻ như hiện hữu mặc con người có chứng
nghiệm chúng hay không.
Thông thường người
ta chỉ chú trọng đến những vật rơ ràng riêng
biệt mà quên rằng tất cả những vật này ḥa
hợp lại để tạo thành một bức tranh
toàn diện.
Dưới cái nh́n này
người ta tin tưởng hoàn toàn vào sự khách quan của
thế giới “bên ngoài” và bỏ quên kinh nghiệm trực
tiếp để chỉ chú trọng vào những đối
tượng hấp dẫn ở trong cái thế giới có
vẻ là ở ngoài đó. Cuối
cùng th́ họ bác bỏ hẳn kinh nghiệm toàn diện
để thiên vị những ǵ họ có thể “khách quan”
đo lường.
Cứ như thế,
người ta xử dụng rất nhiều dụng cụ
để đo lường vô số vật thể ở
thế giới bên ngoài với mục đích là để
hiểu Thực Tại cho rành mạch hơn. Những vật này gồm có h́nh dạng,
màu sắc, âm thanh, mùi vị và cả cảm xúc, cảm
tưởng, con người, yêu, ghét, giận, hoang mang,
đam mê, v.v...
Cái nh́n này về thế giới
không phải là do người ta chứng nghiệm nó mà
như họ tưởng họ chứng nghiệm
nó. Nói cách khác, đó là thế
giới như người ta khái niệm hóa nó chứ không
phải như người ta nhận thức nó. Có thể hiểu kinh nghiệm này
qua một cái nh́n khác.
Qua cách nh́n thứ hai,
người ta để ư đến bức tranh toàn diện
chứ không phải đến những thành phần rời
rạc tạo ra nó. Thật ra
không thấy có thành phần nào cả. Thế giới được
nh́n thấy như một khối đồng nhất. Nhiều khi những kẻ có những
kinh nghiệm xuất thần huyền bí đă nhầm lẫn
cảm giác đồng nhất này với trạng thái giác
ngộ.
Qua cách nh́n thứ nhất
người ta thấy tính chất đa dạng và
tương đối; qua cách thứ hai, họ thấy
tính chất duy nhất hay toàn diện. Cách nh́n nào đúng?
Trong Thiền tông, người
ta hiểu rằng nh́n theo hai lối trên đều sai lầm. Mặc dù cả hai cách nh́n đều
cần thiết, chẳng cách nào cho thấy Thực Tại
một cách trung thực.
Khó khăn với cách nh́n thứ
nhất, tức là cách nh́n theo lẽ thường, là nó
đưa đến hỗn loạn mà không dẫn đến
Sự Thật. Trong những
chương trước đă có rất nhiều thí dụ
cho thấy cách nh́n này không cho người ta một bức
tranh toàn diện.
Nhưng một nhầm lẫn
nhiều người hành đạo, kể cả Phật
tử, thường gập phải là tin rằng cách nh́n thứ
hai, cách đồng nhất, cho người ta bức tranh
trung thực về Thực Tại.
Nhưng không đúng v́ cách nh́n này loại trừ cách
nh́n thứ nhất mà người ta không thể nào phủ
nhận. Thế giới cũng
gồm có rất nhiều vật thể và tư tưởng.
Vấn đề với
hai cách nh́n này là chúng loại nhau ra bởi v́ một khi nắm
giữ một lối nào th́ bị vướng mắc trong
tư tưởng khái niệm.
Rồi bỏ qua kinh nghiệm trực tiếp trong lúc
này. Kinh nghiệm này thật ra
gồm cả hai cách nh́n một lúc.
Người ta rơ ràng chứng nghiệm tính chất
đa dạng và nếu xét cho kỹ th́ họ cũng chứng
nghiệm tính chất đồng nhất. Điều cần thiết để
hoàn tất bức tranh là nh́n thấy hai quan điểm hợp
lại thành một.
Một bản văn cổ
do thiền sư Thạch Đầu viết tựa là Tham
Đồng Khế, “Sự ḥa nhập của khác biệt
và đồng nhất”
đă chỉ thẳng vào vấn đề này. Trong bản văn đó có một
hàng như sau, “Gập phải tính cách tuyệt đối cũng
chưa phải là giác ngộ.”
Khi người ta mới nếm
vị đồng nhất họ thường nghĩ
đă chứng nghiệm được giác ngộ. Cảm giác này cần thiết
nhưng chưa phải là giác ngộ chỉ v́ đồng
nhất không giải thích được vô số vật thể
mà con người gập phải trong từng khoảng khắc.
Thật sự nh́n thấy
Thực Tại là chứng nghiệm cả hai cách nh́n cùng một
lúc để có một cái nh́n mới, toàn diện, đầy
đủ.
Giác ngộ là nh́n thấy rằng
tính chất đa dạng (thế giới thường ngày
của vật này và vật khác) và tính chất đồng
nhất không phải hai, không thể chia chẻ thành hai.
Khi người ta tự
khóa ḿnh trong cách nh́n thứ nhất, họ khó hiểu chứ
đừng nói đến giải thích được ư thức. Bám víu lấy cách nh́n thứ hai cũng
không hơn ǵ. Một khi không nắm
lấy cả hai cách nh́n cùng một lúc th́ không thể hiểu
được ư thức. Bởi
v́ chính ư thức đă chia chẻ cái khối đồng nhất
ra. Cả đa dạng và
đồng nhất đều cần thiết. Chúng thật sự không mâu thuẫn
hay loại trừ nhau ra.
Có một cách giúp con người
nhận thức được khoảng khắc này rất
trực tiếp, mới lạ, không tính toán, không thuộc
quan niệm. Một khi thấy
rơ rồi người ta sẽ không dựa hoàn toàn vào những
ǵ tâm tạo ra nữa – những mô h́nh Thực Tại, những
tư tưởng và tin tưởng. Không những họ sẽ thấy
hai cách nh́n hợp nhất lại mà c̣n thấy thật ra từ
bao giờ cũng chỉ có một cách nh́n. Nh́n được thế th́ nhận
thức ngay được rằng đời người
và thế gian có bề sâu, một điều mà từ
trước đến nay họ không chú ư đến. Con người phải đau khổ
là v́ không thấy được điều này. Vậy mà cái ǵ có thể giải
thoát họ lại luôn luôn ở ngay trước mắt họ.
Ta, trái đất lớn rộng,
và mọi chúng sinh
hoàn tất đường
đạo cùng một lúc.
Đức Phật
Thời gian là ảo tưởng,
một ảo tưởng kéo dài.
-
Albert Einstein
Làm thế nào mà Đức Phật lại giác ngộ
cùng một lúc với mọi chúng sinh? Biến cố này đă chẳng
diễn ra từ lâu lắm rồi sao? Nếu nó đă xảy ra rồi
th́ bây giờ nó ở đâu?
Và “mọi chúng sinh” tất phải bao gồm mọi
người chứ?
Trong kinh sách Phật giáo, có nhiều
đoạn nói đến sự vắng bóng của thời
gian trong những vật, những quan hệ và những sự
kiện. Một thí dụ cổ
xưa là khi Long Thọ chỉ cho thấy rằng không thể
quan niệm thời gian như một thực thể. Trong cuốn Căn bản về
trung đạo,
ông nói rằng thời gian chỉ có thể chứng nghiệm
như một tập hợp những mối quan hệ phụ
thuộc lẫn nhau. Trong bài tiểu
luận “Là thời gian”,
Đạo Nguyên cũng đưa ra cái nh́n tương tự. Tăng Xán, tổ thứ ba của
ḍng thiền Trung Hoa, kết thúc bài thơ “Tín Tâm Minh”
bằng câu “nói không hết bởi v́ đường đạo
không phải hôm qua, hôm nay hay ngày mai.” Trong cổ văn “Tham Đồng
Khế”, thiền sư Thạch Đầu bắt đầu
bằng câu, “Tâm được truyền từ tây sang
đông.” Một sự kiện
như vậy tất nhiên phải xảy ra ngoài khái niệm
thời gian.
Tuy nhiên, thông thường con người
vẫn nh́n thế giới và kinh nghiệm của họ
trong đó theo đường thẳng, cứ như sự
việc được xâu thành chuỗi trên một
đường thẳng từ quá khứ qua hiện tại
đến tương lai. Một
sự việc xảy ra bây giờ có ảnh hưởng
đến mai sau. Con người
nghĩ rằng sự việc xảy ra theo tiến tŕnh
trên.
Quan điểm nào theo kịp tiến bộ
của khoa học ngày nay hơn?
Quan điểm nào phản ảnh thực trạng của
thế giới một cách trung thực hơn?
Gần đây, có một số nhà vật
lư học lại quan tâm đến một cách khái niệm
hóa đặc biệt thời gian và không gian. Phương pháp này đă có từ
những thập niên 1940. Một
mô h́nh của quan điểm này thu hẹp ba chiều không
gian lại chỉ c̣n hai và phóng thời gian vào chiều thứ
ba.
Theo sơ đồ này, người ta
nh́n cái được gọi là “bây giờ” – nghĩa là sự
xếp đặt của mọi vật và sự kiện –
hiện hữu trên một mặt phẳng có hai chiều. Dĩ nhiên, mặt phẳng này, tức
là khoảng khắc hiện thời, không ở bất
động một chỗ. Nó
nhô lên qua chiều thứ ba (thời gian), giống sàn một
cái thang máy. Có khác ở đây
là thay v́ nhô lên qua không gian th́ nó nhô lên qua thời gian. Trong cái mẫu này, ở bất cứ
lúc nào quá khứ là tất cả những ǵ ở bên dưới
sàn thang máy; c̣n tương lai là tất cả những ǵ sắp
gập khi sàn thang máy đi lên.
Qua lối nh́n này, người ta có thể
h́nh dung thời gian và không gian như một khối ba chiều
và mỗi thực thể như một điểm (hay tập
hợp điểm) trong mặt phẳng đó. Cuộc đời của bạn
có thể biểu tượng bằng một đường
thẳng xuyên qua khối đó khi bạn đi thang máy qua thời
gian.
Một vài nhà vật lư học cũng
coi đó như một lối giải thích ư thức. Như nhà vật lư học và toán học
Herman Weyl đă mô tả, “Thế giới khách quan chỉ hiện
hữu chứ không xảy ra.
Chỉ qua cái nh́n của ư thức và ḅ lên trên
đường thẳng của cơ thể tôi, một phần
của thế giới này mới sống dậy trong một
h́nh ảnh thoáng qua và thay đổi liên tục với thời
gian.”
Nhưng tại sao lại phải coi thời
gian là chuyển động?
Khi lập sơ đồ trên, và xem xét
những hiện tượng thuộc thời gian nói chung,
dĩ nhiên các nhà vật lư học vẫn tiếp tục cho
rằng thời gian là một chuyển động từ
quá khứ đến hiện tại và tương lai. Nhưng duy tŕ quan điểm
đó tạo ra vài vấn đề. Chẳng hạn, họ đă khám
phá ra rằng có một vài sự kiện lượng tử
dường như đi thang máy xuống thay v́ lên.
Nói rơ rệt th́ khoa học đă t́m thấy
một hạt gọi là “positron”.
Nó không phải là một hạt có tính chất lư thuyết
hay giả thuyết mà là một hạt có thật xuất
hiện trong một số thí nghiệm lượng tử. Một hạt positron có thể coi
như một electron có đỉện dương
(nhưng electron lại có điện âm) hay một electron
đi ngược ḍng thời gian.
Quan điểm thứ hai này đă giúp các nhà vật lư
học giải quyết được một số vấn
đề đă làm họ bí từ trước đến
nay.
Dĩ nhiên, giải pháp giản dị nhất
là bỏ qua cái lư lẽ có vẻ vô lư rằng có những thực
thể đi ngược thời gian bởi v́ như thế
th́ theo toán học những thực thể này cũng có thể
tiến về “phía trước” thời gian. Thật ra đă có nhiều nhà vật
lư học đă thí nghiệm điều này. Vấn đề là khi họ bắt
đầu h́nh dung các positron như là các electron đi từ
tương lai vào hiện tại về quá khứ th́ bức
tranh toàn diện của thế giới bỗng trở nên
quá đơn giản. Với
các nhà vật lư học th́ sự đơn giản này là một
khích lệ lớn lao để khảo sát vấn đề
một cách đứng đắn hơn. Hơn nữa, nhờ nh́n lại
sự việc tạm thời trong quá khứ như vậy,
họ khám phá ra rằng có thể khái niệm hóa nhiều hiện
tượng lượng tử mà trước đây họ
không giải thích được.
Nhưng thừa nhận sơ đồ
trên cũng đưa người ta đến nhiều
điều khó xử khác. Chẳng
hạn, thế có nghĩa là vũ trụ không có kích thước
hay thời gian, là người ta có toàn thể Thực Tại
– tất cả thời gian, tất cả không gian – cùng một
lúc.
Nói cách khác, không có ǵ – không phải thân thể
con người, không phải ư thức, không phải các
positron - đi thang máy lên hay xuống dọc theo đường
thời gian mà kẻ vạch.
Thật ra cũng không có đường thời gian
nào cả. Tất cả chỉ
là ảo tưởng và chính là nguyên nhân khiến con người
hoang mang về thời gian.
Nói thật giản dị, các nhà vật
lư học bắt đầu đưa ra giả thuyết
như sau. Chẳng hạn, khi
một hạt electron trong pḥng bếp của nhà bạn rung
động, nó ném ra một tín hiệu di chuyển qua toàn thể
không gian và thời gian với vận tốc của ánh
sáng. Khi một hạt electron
khác nhận được tín hiệu này, nó liền đồng
t́nh rung động và gửi trở lại một tín hiệu
cho hạt electron đầu trong bếp. Mỗi electron nhận được
tin này từ các hạt khác ở khắp mọi nơi,
đúng là từ mọi vật trong toàn thể thời gian
và không gian mà nó muốn tiếp xúc với. Kết quả của quá tŕnh này
là mỗi hạt electron đều biết rơ địa vị
và tầm quan trọng của nó trong vũ trụ.
Hăy xem xét kỹ hiện tượng
này. Chẳng hạn người
ta kích động một hạt electron trên trang giấy này
(hăy gọi nó là electron truyền tín hiệu). Nó truyền một tín hiệu (nghĩa
là nó phát ra một photon chuyển động theo thể
sóng) vào vũ trụ với vận tốc của ánh
sáng. Có thể nó không đi xa
hơn bề ngang tờ giấy này, hoặc có thể nó
đi tới giải ngân hà Andromeda ở cách đây hai triệu
năm ánh sáng. Nhưng hạt
electron đi gần hay xa tới đâu không thành vấn
đề bởi v́ sớm muộn ǵ photon của nó cũng
bị một electron khác hấp thu (hăy gọi nó là electron
đáp lại). Hạt electron
đó rung động đáp lại và gửi trở lại
một tín hiệu cho electron truyền tín hiệu trên trang giấy
này.
Theo quan điểm thông thường, nếu
tín hiệu đi tới Andromeda ở cách đây hai triệu
năm ánh sáng th́ phải mất bốn triệu năm th́
tín hiệu mới tới electron gửi tín hiệu trên trang
giấy này.
Nhưng dường như (có nhiều
thí nghiệm đă chứng nhận điều này) electron
truyền tín hiệu nhận được tín hiệu của
electron đáp lại cùng lúc electron này gửi đi. Thay v́ tín hiệu phải mất bốn
triệu năm ánh sáng để tới Andromeda và trở về,
tất cả sự việc xảy ra cùng một lúc.
Nói cách khác, tất cả sự việc
xảy ra trong lúc này, ngoài thời gian. Bây giờ, thay v́ trong thời
gian.
Một vài nhà vật lư giải thích hiện tượng
này như sau. Khi điện tử
đáp lại nhận được tín hiệu, nó gửi
trả tín hiệu ngược ḍng thời gian. Bởi v́ thời gian gửi trả
lại tín hiệu bằng thời gian gửi đi, cả
sự việc được hoàn tất cùng lúc nó khởi
sự. Các nhà vật lư học
có những dữ kiện thí nghiệm chứng minh lối
giải thích này.
Hơn nữa, nếu xét sự kiện
này từ phương diện của các tín hiệu, th́
không có khoảng thời gian nào trôi qua trong suốt cuộc
hành tŕnh dài bốn triệu năm ánh sáng. Einstein có nói rằng nếu con
người có thể theo
được vận tốc ánh sáng th́ thời gian sẽ
chậm lại v́ tốc lực sẽ gia tăng cho đến
khi cuối cùng, ở vận tốc ánh sáng, thời gian sẽ
không trôi qua nữa. Theo quan
điểm của người di chuyển theo vận tốc
ánh sáng th́ họ cảm thấy như tất cả không
gian đi qua cùng một lúc, bất luận cuộc hành tŕnh
dài hay ngắn.
Thế nên, trên phương diện một
photon đi tới Andromeda, th́ cuộc hành tŕnh không tốn
thời gian nào cả, nghĩa là đối với photon
đó Andromeda ở ngay tại đây, bởi v́ không mất
thời gian nào để đến đó. Sự kiện thông điệp ở
đây và đó cùng một lúc khiến “đây” và “đó”
không khác biệt ǵ nhau.
Điều này cũng đúng cho bất
cứ hai “vị trí” nào trong vũ trụ, nghĩa là vũ
trụ không có kích thước hay thời gian bên trong nào cả.
Đối với tâm người b́nh
thường, vũ trụ bao la khó tả và cổ xưa
đến không tưởng tượng nổi. Nhưng đối với người
đă giác ngộ, th́ không cần phải cố gắng
định tính chất (hay định lượng) một
Thực Tại khách quan bằng những phương pháp
như vậy.
Hoàng Bá, một thiền sư Trung Hoa nổi
tiếng ở thế kỷ thứ 9, nói, “Nó không có khởi
đầu, chưa hề được sinh ra, và không thể
bị hủy diệt. Không thể
nói là nó trẻ hay già. Nó không
dài hay ngắn, to hay nhỏ, bởi v́ nó ở bên ngoài mọi
giới hạn, đo lường, tên, vết tích, và so
sánh.”
Vũ trụ, nh́n dưới mắt
người đă giác ngộ, không có kích thước hay tuổi
tác. Tất cả có cái ǵ th́
đều ở đây bây giờ.
Tuy vậy, trong cái ở đây và bây
giờ này, dường như cũng có chiều thời
gian và không gian. Vậy, làm sao
mà có như vậy?
Vẫn có thời gian và không gian v́ có ư thức.
Con người chỉ thấy vũ trụ
bao la và bền bỉ trong khái niệm của họ. Nhưng trong thực tế, nghĩa
là khi họ thật sự nhận thức thay v́ tưởng
tượng, th́ chỉ có ở đây và bây giờ.
Kinh nghiệm của con người bao
giờ cũng ở trong hiện tại. Thật vậy, họ không thể
sống trong tương lai hay quá khứ, mà chỉ có thể
sống trong khoảng khắc vô thời gian rất ngắn
này gọi là bây giờ.
Con người cũng không thể ở
đâu khác hơn là ở đây.
Ở đây họ tưởng tượng đến
“ở đó”, nhưng thật sự họ không đến
đó được. Dù có
đi đâu th́ vẫn không thể rời đây
được.
Cái mà con người chứng nghiệm
là thời gian và không gian là kết quả của tâm. Ư thức tạo ra chúng. Thật vậy, ư thức là
như thế, là sự chia chẻ của cái khối nguyên
vẹn này, vượt lên trên thời gian và không gian mà vào hẳn
thời gian và không gian, nghĩa là vào ở đây và ở
đó, bấy giờ và bây giờ.
Với người đă giác ngộ th́
cái khối vô tận, vô thời gian, vô không gian có thật. Họ thấy cái khối đó, một
khi tách rời khỏi tâm, không có chiều nào cả.
Nếu cứ bàn căi về giác ngộ
măi th́ người ta sẽ có ư tưởng rằng đó
là một trạng thái tinh thần đặc biệt phải
đeo đuổi với bất cứ giá nào. Rồi lại rơi vào t́nh trạng
khao khát, tin tưởng rằng nó sẽ cung cấp cho họ
một điều kỳ diệu:
sự sáng suốt, hạnh phúc, trạng thái xuất
thần, giải thoát khỏi phiền năo.
Nhưng giác ngộ không phải như vậy
chút nào. Những tiếng hạnh
phúc và trạng thái xuất thần không áp dụng được
ở đây mà chỉ dùng cho những kinh nghiệm b́nh
thường. Giác ngộ không
thuộc về loại đó.
Đề cao giác ngộ chỉ là một
h́nh thức ảo tưởng khác.
Tuy vậy, nó đă là một cái bẫy mà nhiều thiền
giả đă rơi vào một cách dễ dàng. Nghĩ đến giác ngộ th́
người ta dễ bị kích động nhưng như
thế là sai lầm. Thà không có
tư tưởng nào về giác ngộ th́ hơn.
Thật vậy, nghĩ đến giác
ngộ giống như nhớ lại một cảm giác
ḿnh vẫn có nhưng đă quên từ lâu rồi.
V́ vậy nên các thầy theo Thiền tông
Tào Động tránh đề cao giác ngộ. Nhưng làm thế th́ lại phạm
phải lỗi ngược lại. Vấn đề ít khi được
nêu lên hoặc giác ngộ được coi như một
đề tài cấm kỵ. Nếu
có nói đến th́ cũng chỉ nói nhỏ thôi. Thành ra lại tạo nên một
không khí khó chịu.
Tất cả những sự việc
trên đưa đến một t́nh trạng hoang mang vô ích,
khiến người ta có một cảm giác hoàn toàn sai lạc,
cho rằng giác ngộ bí hiểm, mơ hồ, và khó nếu
không muốn nói là không thể thực hiện được.
Bức tranh đó có ǵ sai? Tất cả rối loạn, khó
khăn và hiểu lầm từ đâu mà ra? Tại sao lại có vấn đề
ở đây? Tại sao chủ
đề giác ngộ không được vạch rơ và hiểu
rành mạch như mọi vấn đề khác?
Ít khi người ta để ư rằng
có cái ǵ không đúng trong những câu hỏi về giác ngộ. Những câu hỏi này tiêu biểu
cho những hiểu lầm căn bản và thông thường
phát xuất từ lối suy nghĩ nhị nguyên vụn vặt.
Trước hết, giác ngộ không phải
là một trạng thái xuất thần hay hạnh phúc. Dĩ nhiên, có những lúc người
ta say mê một trạng thái sáng suốt rất mạnh mẽ
và có thật. Trong thiền
tông, những giây phút này được gọi là kensho (một
tiếng Nhật có nghĩa là kiến tánh). Những kinh nghiệm này có thể
giúp bạn xét lại đời ḿnh, cho nó một hướng
đi mới hay giúp bạn thực hành thiền hàng
ngày. Nhưng chúng không thể gọi
là dấu hiệu của giác ngộ.
Đôi khi những kinh nghiệm kiến
tánh có đem theo những cảm giác xuất thần,
nhưng có nhiều kinh nghiệm khác như yêu thương
một người nào hay nghe âm nhạc cũng cho cảm
giác này. Có người c̣n nói rằng
sau những giây phút xuất thần th́ vẫn phải
đi giặt quần áo bẩn.
Điều này thật không đúng với giác ngộ.
Bởi v́ không có “hậu giác ngộ”. Giác ngộ ở trên mọi tư
tưởng thời gian. Nếu
có khái niệm thời gian nào về giác ngộ th́ đều
từ kiến thức nhị nguyên mà ra.
Đức Phật là người quen
thuộc với những trạng thái xuất thần và an
lạc. Ngài nói chúng không phải
là giác ngộ. Chính v́, giống
như mọi điều mà người ta có thể gọi
tên, mô tả hay khái niệm hóa, chúng không bền bỉ. Cuối cùng th́ người ta cũng
phải trở về thế gian, và lúc đó th́ phải
đối diện một đống quần áo bẩn. Đó là trạng thái xuất thần
thật đấy nhưng không phải là giác ngộ.
Có một điều khác nữa t́m thấy
trong giác ngộ mà không t́m thấy trong xuất thần. Đó là cuối cùng bạn nhận
thức được rằng không hề có “bạn” nào
giác ngộ bao giờ cả.
Thế nên tất cả những ǵ liên quan đến
tỉnh thức hoàn toàn khác hẳn với trạng thái an lạc.
Nếu có điều ǵ bạn gọi
tên được, chỉ được th́ không phải
là giác ngộ; nó tầm thường. Nó không phải là giải thoát, là
giác ngộ.
Tắc thứ hai muơi bảy trong bản
Bích Nham Lục
rọi chút ánh sáng trên vấn đề này. Một đệ tử hỏi
thiền sư Vân Môn, “Khi cây tàn úa và lá rụng, th́ rồi
sao?” Vân Môn đáp, “Nh́n thấy
rơ thể xác trong gió thu.”
Vân Môn chỉ cho thấy rằng mỗi
khi người ta nghĩ là ḿnh có cái ǵ và nh́n cho kỹ th́ thấy
nó tàn úa rồi chết. Bất
cứ họ muốn tạc cái ǵ và để trước
mặt – thanh danh, nghề nghiệp và kinh nghiệm, cả
cuộc đời họ, ngay cả giáo lư Phật – th́
chúng cũng sẽ héo tàn và qua đi. Không nên tự lừa dối là
hoàn cảnh không như vậy.
Nhưng người ta chỉ buồn
và tuyệt vọng nếu họ bám víu vào quan điểm rằng
trước tiên họ có cái ǵ chắc chắn và bền bỉ.
Sau khi thiền nhiều năm, người
ta có khi tự hỏi, “Để làm ǵ? Thiền như thế th́ ích lợi
ǵ cho bản thân ta, cho thế giới?” Như thế th́ chỉ là làm tồn
tại và đề cao măi một bản ngă không có thật.
Có nh́n kỹ th́ thấy ngay rằng không
có ǵ đặc biệt tồn tại, ngay bây giờ hay bao
giờ. Không thể được.
Có hiểu được thành ngữ
“không có ǵ đặc biệt” th́ mới không hoang mang về
vấn đề giác ngộ, th́ mới không cảm thấy
chán nản khi nghe những lời sâu sắc của Vân Môn.
C̣n có bất cứ cái ǵ, kể cả cảm
giác về cái tôi, th́ nó cũng sẽ biến đi. Nh́n được thế th́
được giải thoát tức th́.
Bạn đă thật sự có hay làm chủ
cái ǵ chưa? Cái ǵ vậy?
Đối với người đă
giác ngộ, cuộc đời không phải là vấn đề
có.
Thiên Quế, một thiền sư Nhật
Bản ở thế kỷ 18 thuộc Thiền tồng Tào
Động, bàn luận về cái cây của Vân Môn như thế
này: “Cây héo úa và chết vào mùa
nào? Ăn uống vào giờ
nào?”
Nói cách khác, bây giờ là mùa nào và giờ
nào? Nh́n cho kỹ th́ không thấy
cái ǵ bất động. Không
có ǵ tĩnh trong kinh nghiệm hiện thời. Tất cả đều lưu
chuyển. Không có thời điểm
nào trong không gian và thời gian mà người ta có thể
trói buộc được hay nhận diện được
rơ ràng. Chỉ có bây giờ.
Lúc nào cũng chỉ có bây giờ. Không thể nào ra khỏi bây giờ. Và bây giờ không phải là một
thời điểm đặc biệt nào.
Tất cả những ǵ con người có, bám víu vào
và cho là có thật, nhất là chính họ, cũng đều
không có ǵ đặc biệt.
Thông thường người ta nghĩ
chỉ có một “tôi” thôi và “tôi” này tồn tại ít nhất
cũng trong một thời gian.
Nhưng trên thực tế, trong mỗi khoảng khắc
là có một người mới.
Tâm trạng biến đổi, tư tưởng thay
đổi, những mối quan tâm thay đổi; những
phân tử và nguyên tử tạo thành “thân xác tôi” cũng biến
đổi. Không có người
đặc biệt nào là “bạn.”
Người ta cứ tưởng là có nhưng có nh́n kỹ
th́ chẳng t́m thấy ai.
Hoàng Bá đă đề cập đến
đề tài này khi ông nói rằng người đă giác ngộ
bác bỏ điều họ nghĩ, chứ không phải
điều họ nh́n thấy.
Người ta nghĩ có một người
đặc biệt tồn tại ở đây rồi tự
hỏi, “Người này có giác ngộ không?” hay là “Có bao giờ
ta giác ngộ được không?”
Nhưng không có người đặc biệt nào giác
ngộ hay u mê cả. Hỏi
như thế là sai lầm.
Khi thiền sinh hỏi thầy dạy rằng
họ đă giác ngộ chưa th́ thầy thường
không đáp là có hay không. Lư do là
v́ nếu thầy đă tỉnh thức th́ biết nhận
thức rằng không có ai giác ngộ cả. Cho nên trả lời là có hay không
chỉ là phê chuẩn tiền đề rằng có một
người đang được ám chỉ đến. Nhưng làm ǵ có ai.
Không có nghĩa là không có người nào
giác ngộ. Có, nhưng họ
tỉnh thức trong khoảng khắc này, chứ không phải
là những thực thể thường hằng như
người ta tưởng.
Cái mà người ta thấy xuất hiện
giống như gió xoáy từ cánh bướm khi nó vỗ
cánh. Phần lớn những
xoáy tan biến đi hay được những cơn gió mạnh
hấp thụ. Riêng “cái xoáy
này” có vẻ lớn mạnh.
Nó lấy năng lượng của các xoáy khác trong
gió. Cuối cùng, nếu “nó” lớn
đủ th́ người ta cho nó một cái tên như Cindy
hay Bob. Một khi có cái tên rồi
th́ nó có vẻ đặc biệt và bền bỉ
hơn. Rồi tự nó có một
sự sống.
Một cơn băo chuyển động. Nó thay đổi, lớn mạnh
rồi tan đi. Nhưng thật
ra, băo Bob hay Cindy là ǵ? Chẳng
là ǵ đặc biệt cả.
Trong mỗi lúc cái mà người ta gọi là Bob, Cindy,
bạn hay tôi không là cái ǵ đặc biệt cả,
nhưng lại có là nhờ năng lượng của toàn
khối.
Con người cũng giống như
những xoáy nước hay âm nhạc, băo hay cột
băng. Một khi được
tạo rồi, nghĩa là thành khái niệm rồi, th́ trở
thành những vật đặc biệt. Nhưng trong từng lúc, tất cả
đều lại mới.
Người ta thường tự hỏi
về giác ngộ, muốn biết ai đă đạt
được, đạt rồi th́ như thế nào, và
không biết ḿnh có đạt được không. Thật ra nên hỏi câu này th́ tốt
hơn: “Ai muốn biết?”
Người ta thường muốn nắm
giữ được cái ǵ và nói, “Đây rồi. Đây là cái tôi muốn. Đây là cái tôi cần.” Nhưng tới một lúc nào, họ
phải nhận thức từ đáy ḷng rằng vạn vật
đều úa tàn rồi chết.
Chúng không thỏa măn, không làm dịu được niềm
đau trong tim.
Không có bí mật nào cho đến khi con
người níu kéo. Nếu họ
không gạt qua một bên kinh nghiệm trực tiếp mà chạy
theo những ưa ghét riêng th́ họ sẽ nhận ra Thực
Tại.
Lúc đó có đặt mắt vào đâu
cũng nh́n thấy Thực Tại.
Kết
Bạn có nghĩ ǵ th́ cũng
là ảo tưởng.
Dainin Katagiri
Sự nhận thức của một
người giác ngộ cũng giống hệt sự nhận
thức của bạn.
Thế nghĩa là bạn cũng tỉnh
thức được. Chỉ
cần nh́n thấy Thực Tại một cách trực tiếp. Muốn thế th́ chỉ cần
vượt lên trên cái tâm tính toán, cái tâm suy tưởng, cái
tâm giảng giải.
Con người hoang mang bối rối
là v́ họ nghĩ nhiều quá.
Không cần phải giải thích Thực Tại v́ có
muốn cũng không giải thích được. Nó đă ở ngay đây rồi. Giải thích chỉ là để
giảng nghĩa nó như thế nào. Nhưng thật là vô lư nếu
người ta nghĩ rằng Thực Tại giống một
cái ǵ. Thực Tại không giống
ǵ cả. Thực Tại là Thực
Tại, không thể hiểu được và cũng không cần
phải hiểu. Người
ta đă nh́n thấy nó rồi.
Chỉ cần không t́m cách nắm giữ nó là
được.
Có nắm giữ cái ǵ th́ hăy buông bỏ
ngay ra. Hăy bước vào khoảng
khắc này. Hăy trở về với
chỉ như thế này.
Cần phải cố gắng một chút nhưng cứ
trở về với chỉ như thế này và hăy chỉ
nh́n cái mà bạn đă bỏ quên từ quá lâu rồi.
(Trở lại trang đầu)