Khoa Học và Phật Giáo:
Trước Ngă Tư Đường
Prof.
Trịnh Xuân Thuận
Phân
Khoa Thiên Văn Học, Đại Học
Virginia
Tâm Hà Lê Công Đa chuyển
ngữ (*)
English version
I.
Có những Nền Tảng Nào Cho Một Cuộc Đối
Thoại?
Khoa
Học và Phật Giáo vốn có những phương
thức khác biệt rất cơ bản trong việc nghiên
cứu thực tại. Trên b́nh diện khoa học, tri
thức và luận lư nắm giữ những vai tṛ then
chốt. Khoa học thu lượm những hiểu
biết về thế giới thực tại rồi cô
đọng chúng lại thành những quy luật có thể
kiểm chứng được. Bằng cách phân chia,
xếp loại, phân tích, so sánh, và đo lường, nhà khoa
học diễn giải những quy luật này thông qua
một loại ngôn ngữ khá trừu tượng của
toán học. Dĩ nhiên trong khoa học, trực giác không
phải là không có chỗ đứng, tuy nhiên nó chỉ mang
lại kết quả khi nào được hệ thống
hoá trong một cấu trúc chặt chẽ của toán
học mà hiệu độ được đảm
bảo bằng quan sát và phân tích. Ngược lại, chính
trực giác –hay kinh nghiệm nội tâm- lại đóng vai
tṛ chủ yếu trong phương cách Phật giáo dùng
để tiếp cận thực tại. Trong khi khoa
học hướng ngoại th́ Phật giáo hướng
nội, dùng quán chiếu làm phương thức tiếp
cận. Trong khi khoa học chỉ bận tâm về thế
giới khách quan th́ mối quan tâm chính yếu của
Phật giáo là cái ngă tự thân.Thay v́ chẻ nhỏ thực
tại ra thành từng bộ phận khác biệt như
phương pháp quy giản của khoa học, Phật giáo
với phương thức tiếp cận toàn bộ
sự vật mà mục đích là để hiểu chúng
như một tổng thể nguyên trạng. Phật giáo
không cần đến những thiết bị đo
lường và cũng không cần nương tựa
vào bất cứ phương tiện quan sát tinh vi nào
vốn là xương sống của nền khoa học
thực nghiệm. Nó thiên về định phẩm hơn
là định lượng.
Tuy
nhiên sự khác biệt chính yếu giữa sự theo
đuổi kiến thức trong khoa học và Phật giáo
là do ở những mục tiêu rốt ráo của chúng.
Mục tiêu của khoa học là t́m hiểu về thế
giới hiện tượng. Trọng tâm chính yếu
của nó là những kiến thức về vũ trụ
vật lư, được xem như mang tính khách quan và có
thể xác định số lượng, cũng như
nhằm đạt đến việc kiểm soát thế
giới tự nhiên. Ngược lại trong Phật giáo,
kiến thức được thu nhận chủ yếu
chỉ nhằm vào những mục đích trị liệu.
Mục tiêu của Phật giáo v́ thế không phải t́m
hiểu vũ trụ vật lư cho lợi ích của riêng
ḿnh mà chỉ để nhằm giải phóng nhân sinh ra
khỏi những khổ đau hệ lụy gây ra bởi
sự dính mắc thái quá vào cái thực tại biểu
kiến của thế giới ngoại tại. Những
tra vấn mang tinh thần thực nghiệm được
thúc đẩy bởi tính ṭ ṃ tri thức không phải là
mục tiêu chính mà Phật giáo nhắm đến. Thay vào
đó, họ muốn hiểu rơ bản tánh chân thật
của vạn pháp để có thể xóa tan đi đám
mây mờ vô minh và mở ra cánh cửa vào Giác Ngộ và con
đường giải thoát. Thay v́ dùng viễn vọng
kính, hạt gia tốc hay kính hiển vi, Phật giáo dùng tâm
như là một khí cụ để nghiên cứu vũ
trụ. Nó nhấn mạnh đến tầm mức quan
trọng của sự giải thích bản tánh của tâm
thông qua kinh nghiệm thiền quán trực tiếp. Trải
qua hàng thế kỷ Phật giáo đă đề ra một
phương thức tiếp cận sâu sắc và nghiêm nhặt
liên quan đến những hiểu biết về những
trạng thái tâm linh và bản tánh rốt ráo của tâm. Tâm
đứng đằng sau mỗi một kinh nghiệm
của đời sống. Nó khẳng định cách
thế mà ta nh́n thế giới. Chỉ một thay
đổi cực nhỏ trong tâm thức của ta, qua cách
thức mà ta đối phó với những trạng thái tâm
linh và nhận thức về người và vật như
thế nào cũng đủ để thế giới
của “ta” hoàn toàn đảo lộn. Như thế, thay v́
chuyên chú hoàn toàn vào ngôi-thứ-ba, tức là lănh vực
của thế giới khách quan hiện tượng như
là nền khoa học cổ điển, Phật giáo
đồng thời cũng đặt trọng tâm của
ḿnh vào lănh vực liên quan đến ngôi-thứ-nhất.
Với
những khác biệt có vẻ cơ bản trong cả
phương pháp và mục tiêu, như vậy có thể có
một nền tảng chung để đối thoại
giữa khoa học và Phật giáo hay không? Phật giáo có ǵ
để nói về bản chất của hiện
tượng khi đây không phải là mối quan tâm chính, mà
là những mối bận tâm của những bộ môn khoa
học? Ta có một câu trả lời dứt khoát cho
những câu hỏi này là có. Một trong những nhiệm
vụ chính của triết học Phật giáo là nghiên
cứu về bản chất của thực tại. Trong
khi khoa học không phải là mối bận tâm chính của
Phật giáo, nó cũng đă từng đặt ra những
câu hỏi tương tự với những vấn
đề được nêu lên bởi nền khoa học
đương đại. Có thể nào những hạt
rời bất khả phân là những khối cấu trúc
cơ bản của thế giới hiện tượng?
Có phải chúng thực sự hiện hữu hay chỉ là
những ư niệm giúp ta hiểu biết về thực
tại? Phải chăng những định luật
vật lư là bất biến, có những hiện hữu
tự thân như những quan niệm lư tưởng
của Plato? Phải chăng có một thực tại
chắc thật đằng sau những sắc
tướng? Đâu là nguồn gốc ban đầu
của thế giới hiện tượng, và cái thế
giới chung quanh mà chúng ta cho là “thực” có thực sự
hiện hữu? Đâu là mối liên hệ giữa
động và tĩnh, giữa chủ thể và khách
thể? Bản chất của không gian và thời gian là ǵ?
Những triết gia Phật giáo trong suốt 2,500 năm qua
đă không ngừng nghiên cứu, trăn trở về
những vấn nạn này. Kinh văn Phật giáo phong phú
với những bộ luận bàn thảo về tri
thức cũng như lư giải về những
cấp độ khác nhau của thế giới hiện
tượng, kể cả những bộ luận về
tâm lư học khám phá những lănh vực khác biệt
của ư thức và bản chất rốt ráo của tâm.
Trong
khi những phương pháp nghiên cứu của Phật
giáo và khoa học nhằm khám phá thế giới hiện
tượng thoạt nh́n có vẻ rất khác nhau, nhưng
khi nh́n kỹ hơn người ta thấy rằng Phật
giáo cũng như khoa học đều dựa vào
phương pháp thực nghiệm để khám phá thực
tại. Phương pháp phân tích của Phật giáo thông
thường sử dụng ‘suy nghiệm’ cũng
được dùng rộng răi trong khoa học. Đây là
những thí nghiệm tưởng tượng
được tiến hành trong tâm thức, dẫn
đến những kết luận khó thể bác bỏ
được, cho dù là những thí nghiệm này thực
sự không hề được tiến hành. Kỹ
thuật này thường được sử dụng
bởi những chuyên gia hàng đầu trong khoa học, cụ
thể như Einstein. Thí dụ, khi khảo sát về
bản chất của không gian và thời gian, nhà vật lư
tưởng tượng ra ḿnh đang cưỡi lên
một hạt ánh sáng. Thế là khi nghĩ đến
trọng lực, lập tức y cảm thấy ḿnh
đang ở trong sự vận hành của gia tốc.
Cũng một kiểu cách như vậy, những nhà
Phật học dùng phép suy nghiệm để phân tích
mổ xẻ thực tại. Phật giáo cũng giống
với khoa học ở chỗ khuyến khích tinh thần
hoài nghi trong việc xây dựng niềm tin. Đức
Phật đă từng khuyến khích chúng ta không nên chấp
nhận một cách mù quáng giáo thuyết của ngài
nếu như không tự ḿnh suy nghĩ thấu đáo. Ngài
dạy rằng: “Giống như một người khôn
ngoan biết đâu là vàng thật sau khi đă thử
nghiệm bằng cách cắt ra, nung chảy hay chà xát,
những lời dạy của ta cũng thế, chỉ
được chấp nhận sau khi đă suy xét thấu đáo
chứ không phải là do kính trọng ta.” Nếu chúng ta xem
“khoa học” mang ư nghĩa “một hệ thống kiến
thức chính xác, chặt chẽ và có thể kiểm
chứng được” hoặc như là “một loạt
những quy luật và tiến tŕnh liên hệ đến
sự nhận ra và công thức hoá một vấn nạn,
công thức dựa trên những giả thiết và dữ
kiện được thu thập thông qua quan sát và thí
nghiệm để kiểm chứng những giả thiết
này” ( từ điển Webster), th́ Phật giáo có thể
được mô tả như là một “khoa học quán
tưởng” hay nói rơ hơn, “một khoa học về tâm”.
Thế nhưng ở đây, phạm trù nghiên cứu không
phải chỉ đơn thuần là một thế
giới vật chất “khách quan” mà ta có thể khảo sát,
đo lường, tính toán một cách vật lư, một
thế giới chỉ có thể được mô tả
qua ngôn ngữ của phương pháp định
lượng ngôi-thứ-ba, nhưng là một thế
giới được nhân rộng ra bao gồm toàn thể
phạm vi của kinh nghiệm sống “chủ quan” của
con người bao gồm cả lănh vực tâm thức
chỉ có thể nhận thức được thông qua
nội quan ngôi-thứ-nhất.
Trong
những phần tiếp theo, chúng tôi sẽ cố gắng
so sánh những quan điểm về thực tại
được tŕnh bày qua lăng kính của khoa học
lẫn Phật giáo, cũng như bắc lên những
chiếc cầu nối liền giữa khoa học của
thế giới vật lư và khoa học về tâm. Mục
đích của chúng tôi ở đây không nhằm khoác lên khoa
học một chiếc áo thần bí cũng như không
hề biện hộ cho những trụ chống của
Phật giáo trước những khám phá của nền khoa
học đương đại. Khoa học hành xử
chức năng của ḿnh một cách tốt đẹp, nó
mang tính độc lập và hoàn thành những mục tiêu
đă vạch một cách hoàn hảo mà không cần
đến sự hỗ trợ triết học từ
Phật giáo hay bất kỳ tôn giáo nào. Mà thực ra,
một khi tôn giáo nghĩ rằng ḿnh có thể mang “chân lư”
đến cho khoa học th́ đó cũng là lúc vấn
nạn xuất hiện, cụ thể như thảm
kịch mà Giáo Hội lên án Gallileo vào năm 1633. Phật giáo
là khoa học của sự Tỉnh Thức, thế nên cho
dù Quả Đất có quay quanh Mặt Trời hay
ngược lại, điều đó cũng không hề
tạo nên bất kỳ hệ quả nào đối
với nền tảng triết lư của nó. Phật giáo
đă hiện hữu trên hành tinh này 2,500 năm rồi trong
khi nền khoa học hiện đại chỉ mới
bắt đầu từ thế kỷ thứ 16. Tuy nhiên
bởi lẽ cả hai đều khao khát đi t́m chân lư,
và để đạt mục tiêu này đều sử
dụng đến những tiêu chuẩn mang tính chân xác,
chặt chẽ và luận lư, những thế giới quan
tương ứng của họ v́ thế không thể
đưa đến kết quả đối nghịch
không thể vượt qua mà ngược lại cả hai
có thể bổ sung nhau một cách hài hoà. Nhà vật lư Werner
Heisenberg đă phát biểu quan điểm này một cách
đầy thuyết phục như sau: “Tôi xem cái hoài
vọng nhằm khắc phục những đối
nghịch, trong đó một sự tổng hợp bao
gồm cả nhận thức thuần lư lẫn kinh
nghiệm thần bí về nhất thể, là cái ‘mythos’ (*),
dù có được nói ra hay không, của thời
đại chúng ta.”
Chúng
tôi sẽ thảo luận và so sánh thế giới quan
của Khoa Học và Phật Giáo bằng cách khảo sát
mỗi một trong ba học thuyết căn bản
của Phật Giáo, trước tiên là ư niệm về “Vô
Thường” trong phần II, tiếp đến là “Duyên
Khởi” và “Tánh Không” trong phần III. Sau đó, chúng tôi
sẽ thảo luận chung quanh vấn đề
tại sao trái ngược với các tôn giáo độc
thần, Phật Giáo bác bỏ quan niệm về sự
hiện hữu của một vị “Thượng
Đế” hay là một “Đấng Sáng Tạo” trong
phần IV và cuối cùng nêu ra một vài nhận xét trong
phần V.
II.
Vô Thường giữa ḷng thực tại.
Phật
giáo phân chia ra hai loại vô thường, thô và tế. Thô bao
gồm tất cả những đổi thay hiển nhiên
của cả con người và sự vật mà chúng ta
chứng kiến trong cuộc sống hàng ngày: sự
đổi mùa, núi ṃn sông lở, quá tŕnh biến đổi
từ tuổi trẻ đến tuổi già, những t́nh
cảm luôn biến chuyển trong ta. Thể vi tế
của vô thường cụ thể như: trong mỗi sát
na, bất cứ những ǵ có vẻ hiện hữu
đều thay đổi. Vũ trụ không phải
được tạo thành bởi những thực thể
riêng biệt, rắn chắc mà ngược lại,
giống như một ḍng suối bao la của những
sự kiện, và những ḍng chảy năng động
mà trong đó tất cả đều được
nối kết và liên tục tác động lẫn nhau. Khái
niệm về sự thay đổi không ngừng và
khắp nơi trong Phật giáo tương ứng với
chủ đề quan trọng về thuyết tiến hoá
trong mọi lănh vực khoa học của thế kỷ 20.
Bây
giờ hăy nh́n đến khoa vũ trụ học
đương đại. Khái niệm về những thiên
giới không hề biến đổi của Aristote và
vũ trụ tĩnh lặng của Newton đă đi vào quá
khứ. Mọi sự mọi vật đều biến
đổi và chuyển động, tất cả
đều vô thường, từ một hạt cơ
bản cực nhỏ cho đến toàn thể vũ
trụ, kể cả những dải ngân hà, tinh tú, hành tinh
cũng như nhân loại. Vũ trụ không ở thể
tỉnh, mà không ngừng trương giản do bởi
những xung lực ban đầu nhận được từ
vụ nổ sơ khởi. Cái vũ trụ năng
động này được mô tả bởi những
phương tŕnh về luật Tương Đối
Tổng Quát. Với lư thuyết “Big Bang”, vũ trụ không
c̣n là một cái ǵ đó thường hằng vĩnh
cửu. Nó có một khởi đầu, một quá khứ,
một hiện tại và một tương lai. Nó đang
có một lịch sử. Theo những quan sát gần
đây, nó sẽ trương giản bất tận, ngày
càng lạnh giá hơn và cuối cùng chết trong
trạng thái băng giá. Bên cạnh sự chuyển
động trương giản, tất cả những
cấu trúc của vũ trụ -những vẫn thạch,
sao chổi, hành tinh, tinh tú, những dảy ngân hà, nhóm thiên
hà -tất cả đều không ngừng chuyển
động và dự phần vào một khúc luân vũ mênh
mông của toàn vũ trụ: chúng quay quanh trục của ḿnh,
quanh tinh thể khác, xúm lại hay dang ra khỏi nhau. Chúng
cũng có một quá tŕnh, được sinh ra,
trưởng thành, rồi chết. Những tinh tú có một
sinh mệnh kéo dài hàng triệu hoặc hằng tỷ
năm.
Thay
đổi và tiến hoá cũng đi vào những lănh
vực khác của khoa học. Trong địa chất
học, những đại lục mà chúng ta nghĩ
rằng đă dính chặt vào vỏ Trái Đất bây
giờ được biết là đă di
động khoảng vài cm mỗi năm, tạo nên
những núi lửa và động đất tại
những vùng tiếp giáp của các thềm lục
địa. Mặt Trái Đất luôn luôn thay đổi và
tự tu sửa. Trong lănh vực sinh học cũng thế,
khái niệm về thuyết tiến hoá đă
được nhà tự nhiên học Charles Darwin đưa
ra vào năm 1859. Con người không c̣n là một cái ǵ
đó thuộc gịng giỏi thánh thần. Họ không là
những hậu duệ của Adam và Eve do Thượng
Đế sáng tạo ra như trước đây
người ta đă nghĩ mà là sản phẩm của
cả một chuổi dài tiến hoá được h́nh
thành bởi sự lựa chọn tự nhiên. Đi
ngược lại quá khứ, tổ tiên của con
người từng là những động vật linh
trưởng, những loài ḅ sát, cá tôm, những loài
động vật không xương sống và những sinh
thể đơn bào sơ khai.
Định
luật vô thường không phải chỉ có mặt ở
trong thế giới vĩ mô mà ngay cả ở trong
những lănh vực nguyên tử và hạ nguyên tử
(subatomic). Những hạt được biết là có
khả năng tự sửa đổi bản chất
của ḿnh: quark có thể tự thay đổi gia hệ
hoặc ‘hương vị’, proton có thể biến thành
nơtron trong khi phát xạ pozitron và neutrino. Vật chất
và phi-vật-chất có thể tiêu diệt lẫn nhau
để trở thành năng lượng thuần
khiết. Năng lượng chuyển động của
một hạt có thể chuyển hoá vào trong một
hạt khác và ngược lại, cụ thể như
phẩm tánh của một vật thể có thể biến
thành một vật thể. Những hạt điện
tử trong những vật thể bao quanh chúng ta không bao
giờ đứng yên một chỗ. Ngay chính trong
khoảnh khắc này đây, có đến hàng tỉ
những hạt phù du neutrinos đi ngang qua thân xác chúng ta
trong từng giây một. Do tính lượng tử bất
định của năng lượng, khoảng không gian
chung quanh ta đầy ắp một số lượng khó
tưởng tượng nổi của những hạt
‘ảo’, hiện hữu phù du như những bóng ma. Chúng
xuất hiện và biến mất liên miên; và đây chính là
h́nh ảnh tuyệt vời nhất của tính vô
thường v́ chúng có một đời sống cực
kỳ ngắn ngủi. Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa: sự
‘vô thường vi tế’ của Phật giáo có mặt
khắp nơi theo như cách mà nền khoa học
đương đại mô tả về thực tại.
III.
Duyên Khởi và Tính Bất Khả Phân của Hiện
Tượng.
1.
Trung Đạo.
Ư
niệm về duyên khởi là cái nh́n trung tâm của Phật
giáo về bản chất của thực tại. Nó chỉ
rơ rằng “không có ǵ hiện hữu một cách tự thân,
hoặc do bởi chính nó.” Một vật thể chỉ có
thể được xác định do bởi những
vật thể khác và chỉ hiện hữu trong mối liên
hệ cùng nhau. Nói một cách khác, cái này sanh bởi v́ cái kia
sanh. Duyên khởi là tất yếu trong sự xuất
hiện của hiện tượng giới. Kinh nghiệm
sống hàng ngày khiến chúng ta cho rằng mọi sự
vật đều sở hữu một cái ǵ đó có
thực, độc lập khách quan có vẻ như là chúng
hiện hữu bởi chính nó với những bản
sắc tự thân. Thế nhưng Phật giáo quan niệm
rằng cách nh́n thế giới hiện tượng như
vậy chẳng qua chỉ là do tâm tạo. Họ gọi
sự nhận thức về một hiện tượng
riêng biệt do những nhân và duyên biệt lập tạo
nên là ‘tục đế’ hay ‘huyễn ảo’. Thay vào đó,
Phật giáo đưa ra ư niệm về luật nhân
quả hổ tương: một sự kiện chỉ có
thể xảy ra bởi v́ nó nương tựa vào
những yếu tố khác. Bởi v́ tất cả mọi
sự vật đều là một bộ phận của
cái toàn thể, thế nên không cái ǵ có thể xảy ra
một cách riêng rẻ. Bất cứ một sự vật
nào trên thế giới này chỉ có thể xuất hiện
bởi v́ nó được nối kết, duyên sanh và
thế rồi trùng trùng duyên khởi, cùng có mặt, cùng vận
hành trong một ḍng chuyển biến không ngưng nghỉ.
Một thực thể hiện hữu một cách
độc lập với tất cả những cái khác
như là một thực thể bất biến, độc
lập đă không thể tác động lên bất cứ
cái ǵ hay ngay cả chính nó.
Phật
giáo như thế đă nh́n thế giới này như là
một ḍng chảy mênh mông bao gồm những sự
kiện được nối kết lại và cùng dự
phần tác động lên nhau. Trong khi đó, cách thế mà
chúng ta nhận thức về ḍng chảy này cô đọng
lại trong một vài khía cạnh của cái vũ trụ
bất khả phân từ đó tạo ra một ảo
tưởng rằng đă có những thực thể
độc lập hoàn toàn tách biệt nhau và tách rời
khỏi chúng ta. Những hiện tượng giới
như thế chỉ là những sự kiện đơn
giản chỉ xảy ra trong một vài t́nh huống nào
đó. Khi đưa ra quan điểm này không có nghĩa là
Phật giáo bài bác tục đế -những ǵ mà
người b́nh thường nhận thức
được hay nhà khoa học khám phá ra bằng những
thiết bị của họ-, hoặc không thừa
nhận luật nhân quả, hay là những định
luật vật lư và toán học. Nó chỉ nói lên một
điều đơn giản rằng, nếu chúng ta
đào đủ sâu, sẽ thấy có sự khác biệt
giữa cách mà chúng ta nh́n thế giới hiện
tượng và cái chúng thực sự là.
Cái
khía cạnh vi tế nhất của duyên khởi liên quan
đến mối liên hệ giữa ‘danh’ và ‘danh
tướng’ của một sự vật. Danh tướng
của một vật thể bao gồm vị trí, chiều
kích, h́nh dáng, màu sắc hay bất cứ những
đặc tính nào có thể trông thấy được.
Tập hợp lại cùng nhau, chúng tạo nên cái ‘danh’
của vật thể, tức là một sản phẩm tâm
tạo gán cho một thực tại cá biệt của
một vật thể nào đó. Trong đời sống hàng
ngày, khi chúng ta trông thấy một vật thể, chúng ta
không hề bị ấn tượng bởi sự hiện
hữu của nó mà là cái giả danh của vật thể
đó. Bởi v́ chúng ta cảm nghiệm nó, Phật giáo không
hề cho rằng nó không hiện hữu. Tuy nhiên họ
cũng không bảo rằng nó có một thực tại
tự thân. Phật giáo đưa ra quan điểm rằng
vật thể hiện hữu (như thế tránh
được chủ nghĩa hư vô đoạn kiến
mà Tây phương thường nhầm lẫn gán cho
Phật giáo), tuy nhiên hiện hữu này là thuần túy duyên
khởi. Đây là cái mà Đức Phật gọi là Trung
Đạo. Một hiện tượng giới không có một
hiện hữu độc lập thế nhưng cũng
không hoàn toàn phi hữu, có thể hoạt động và hành
xử chức năng đúng theo luật nhân quả.
2.
Tính phi-cục-bộ của thế giới lượng
tử.
Một
ư niệm gây ấn tượng tương tự như
duyên khởi của Phật giáo đó là khái niệm về
tính ‘bất khả phân’ hay ‘phi-cục-bộ’ trong Cơ
học lượng tử được khám phá qua một
cuộc thí nghiệm tưởng tượng nổi
tiếng do Einstein, Podolsky và Rosen (EPR) đưa ra vào năm
1935 trong một nỗ lực muốn chứng tỏ
rằng xác suất lư giải về cơ học
lượng tử là sai lầm và học thuyết này
như vậy là chưa hoàn chỉnh. Thí nghiệm này có
thể được mô tả lại một cách giản
dị như sau: Tưởng tượng ra một
hạt phân hủy một cách tự phát thành ra 2 photon A và B.
Luật đối xứng nêu rơ rằng chúng sẽ di
chuyển ngược chiều nhau. Nếu A đi về hướng
Tây, chúng ta sẽ khám phá ra B đi về hướng
Đông. Tất cả có vẻ như b́nh thường,
tuyệt hảo. Thế nhưng đó là ta đang quên
đi tính chất kỳ lạ của thế giới
lượng tử. Cũng giống như Janus, ánh sáng mang
hai mặt khác nhau. Nó có thể là sóng hay hạt.
Trước khi bị khám phá bởi máy ḍ, lư thuyết
lượng tử cho ta biết rằng A xuất hiện
dưới dạng sóng. Luồng sóng này không được
cục bộ hóa, đă không có một xác suất chothấy
rằng A có thể được t́m thấy ở bất
cứ hướng nào. Chỉ khi bị bắt gặp, A
mới ‘biết’ là nó đang di chuyển về
hướng Tây. Thế nhưng, nếu như A đă không
‘biết’ được trước khi bị khám phá là
ḿnh đi về hướng nào th́ làm sao B có thể
‘đoán’ được A đang làm ǵ để có
thể điều chỉnh cách ứng xử cho phù hợp
để được bắt gặp vào cùng một thời
điểm ở hướng đối diện của A?
Đây là điều khó có thể xảy ra trừ phi A thông
báo cho B một cách đồng bộ về phương
hướng mà nó đang đi. Điều này hàm ư rằng
có một tín hiệu ánh sáng được phóng ra ở
một tốc độ vô hạn, và như vậy hoàn toàn
trái ngược với luật tương đối
tổng quát. Bởi v́ không hề có chuyện ‘Thượng
Đế phóng ra những tín hiệu cảm ứng từ
xa’ cũng như không thể có ‘hành động qủy ma
nào ở gần’, Einstein kết luận rằng cơ
học lượng tử đă không cung cấp một
sự mô tả hoàn chỉnh về thực tại, rằng
A phải ‘biết’ hướng nào ḿnh sẽ đi
đến và ‘báo’ cho B biết trước khi tách rời
nhau. Ông nghĩ rằng mỗi hạt đều có chứa
‘những ẩn số’ mà cơ học lượng tử
đă không nắm được điều này, thế nên
nó không hoàn chỉnh.
Trong
gần 30 năm, thí nghiệm EPR vẫn được xem
như là một thí nghiệm tưởng tượng
bởi v́ những nhà vật lư đă không biết phải
làm thế nào để thực hiện nó. Măi cho
đến năm 1964 th́ nhà vật lư học John Bell mới
t́m ra một phương cách để đưa cái ư
tưởng chính yếu của EPR từ nghiên cứu
trừu tượng thành một dự tŕnh có thể
kiểm chứng được trong pḥng thí nghiệm. Ông
đưa ra một định lư toán học, bây giờ
được gọi là ‘Bất đẳng thức Bell’,
có thể kiểm chứng được bằng thí
nghiệm nếu như những hạt thực sự
đă có chứa những ẩn số. Vào đầu
thập niên 80, nền khoa học kỹ thuật cuối
cùng đă chín mùi đủ để cho nhà vật lư Alain
Aspect và những người trong nhóm của ông tại Paris
có thể thực hiện một loạt những thí nghiệm
trên một cặp photon ‘tương tác’ nhau -tức là
những photon có những tác động qua lại với
nhau-. Họ khám phá rằng Bất đẳng thức Bell
luôn luôn bị vi phạm. Điều này chứng minh
rằng đă không có những ẩn số và như vậy
có nghĩa là Cơ học lượng tử đă đúng
và Einstein sai lầm. Trong những thí nghiệm của Aspect,
photons A và B được giữ cách xa nhau 12m, và
người ta thấy B luôn luôn ‘biết’ ngay lập
tức những ǵ A đang làm và có những phản ứng
tương xứng. Những nhà vật lư cũng
đảm bảo rằng không có một tín hiệu ánh sáng
nào có thể được trao đổi giữa A và B,
bởi v́ những đồng hồ nguyên tử
được gắn vào những máy ḍ nhằm khám phá A và
B, cho phép họ đo lường được thời
điểm đến của từng photon một cách
cực kỳ chính xác. Sự cách biệt giữa hai
thời điểm đến của hai photons chưa
đến 10 phần tỷ giây –trong thực tế là zero,
bởi v́ những đồng hồ nguyên tử hiện
nay chỉ mới cho phép ta đo đến mức 10^-10
giây. Bây giờ, trong khoảng 10^-10 giây đó, ta biết
được rằng ánh sáng chỉ mới di chuyển
được 3cm, ngắn hơn là khoảng cách 12m
giữa A và B. Hơn thế nữa, người ta vẫn
có cùng kết quả nếu như khoảng cách giữa hai
photon ‘tương tác’ này được gia tăng. Trong
một thí nghiệm gần đây nhất do nhà vật lư
Nicolas và những đồng sự của ông thực
hiện tại Geneva vào năm 1998, hai photons được
giữ cách xa nhau 10km, thế nhưng những ứng
xử của chúng vẫn tương quan tuyệt
hảo. Đây sẽ chỉ là một điều
nghịch lư khi nào, như Einstein suy nghĩ, chúng ta cho
rằng thực tại đă được cắt ra và
cục bộ hóa trong mỗi photon. Vấn nạn này sẽ
không c̣n nữa khi chúng ta nh́n nhận rằng A và B, một
khi đă tương tác cùng nhau, trở thành một bộ
phận của một thực tại bất khả phân,
không cần biết đến chúng cách xa nhau bao nhiêu, ngay
cả mỗi hạt ở mỗi đầu vũ
trụ. A không cần phải gởi tín hiệu đến
cho B bởi v́ chúng cùng chia xẻ chung một thực
tại. Ngành Cơ học lượng tử như thế
đă loại trừ mọi ư tưởng về cục
bộ và mang đến cho ta một cái nh́n tổng thể
về không gian. Với hai cái photons tương tác này, ư
niệm về ‘nơi này’ và ‘chỗ kia’ trở thành vô
nghĩa bởi v́ ‘nơi này’ cũng chính là ‘chỗ kia’.
Đó là những ǵ mà nhà vật lư gọi là ‘tính
bất-khả-phân’ hay ‘phi-cục-bộ’ của không gian.
Điều này cũng tương tự với ư niệm
duyên sanh, duyên khởi của thế giới hiện
tượng trong Phật giáo.
3.
Thí nghiệm đồng hồ quả lắc của
Foucault và tính duyên khởi của thế giới vĩ mô.
Một
thí nghiệm vật lư hấp dẫn và nổi tiếng khác
cho thấy tính duyên khởi của hiện tượng
không phải chỉ giới hạn trong thế giới
của các hạt nhưng lan rộng ra đến cả
toàn thể vũ trụ. Đây là thí nghiệm về
quả lắc được thực hiện bởi nhà
vật lư Léon Foucault vào năm 1851 tại điện
Panthéon, Paris nhằm giải thích về việc Trái
Đất quay. Tất cả chúng ta hầu như ai
cũng đều biết đến đặc tính
của quả lắc. Với thời gian trôi, phương
hướng của quả lắc cũng thay đổi
theo. Nếu ta bắt đầu cho nó lắc theo
hướng bắc-nam, chỉ vài giờ sau nó sẽ
lắc theo hướng đông-tây. Nếu cái đồng
hồ quả lắc này được đặt ở
Bắc hay Nam cực, nó sẽ quay đủ một ṿng 24
tiếng đồng hồ (tại Paris, do ảnh
hưởng của vĩ độ, cái đồng hồ
quả lắc của Foucault chỉ thực hiện
được một phần của ṿng quay trong ngày).
Foucault nhận thức rằng, trong thực tế, cái
quả lắc đă lắc cùng một hướng,
chỉ có Trái Đất là đang quay.
Tuy
nhiên vẫn c̣n một vấn đề nan giải mà măi cho
đến nay người ta vẫn chưa hiểu
được rơ ràng. Cái quả lắc của đồng
hồ được thiết trí cố định trong
một không gian, nhưng mà cố định tương
ứng đối với cái ǵ? Chúng ta biết rằng cái
đồng hồ quả lắc được gắn vào
trong một ṭa nhà và toà nhà này th́ dính vào Trái Đất. Trái
Đất mang chúng ta di chuyển với vận tốc 30km/giây
một ṿng chung quanh Mặt Trời và Mặt Trời th́
cũng đang quay trong không gian với một vận
tốc 230km/giây trên quỹ đạo chung quanh trung tâm
của giải Ngân Hà, mà chính nó cũng đang
chuyển động hướng đến giải thiên
hà Andromeda với vận tốc khoảng chừng 90km/giây.
Nhóm Địa Phương (Local Group) của những thiên
hà, trong đó những quần tụ hùng vĩ nhất
như là Galaxy và Andromeda, cũng đang di chuyển với
vận tốc 600km/giây dưới sức hút trọng
lực của nhóm Virgo và siêu nhóm Hydra-Centaurus. Thế
nhưng nhóm sau này lại cũng đang quay hướng
về Great Attractor, một quần tụ tương
đương với hàng chục ngàn giải thiên hà.
Như vậy cái quả lắc đồng hồ của
Foucaults đă được điều khiển bởi
cái nào trong những cơ cấu này? Để t́m hiểu
xem thiên thể nào đă điều khiển cái quả
lắc của đồng hồ Foucault, việc giản
dị là chúng ta đặt con lắc hướng về
phía thiên thể đó. Nếu như thiên thể đó
đang di động trong bầu trời, mà vẫn luôn luôn
nằm ở trong hướng chỉ của con
lắc, ta có thể kế luận rằng thiên thể
đó là tác nhân chính trong sự vận hành của con
lắc. Bây giờ chúng ta hăy để con lắc
hướng về phía Mặt Trời. Sau một tháng, ngôi
tinh cầu này đă chệch ra khỏi hướng của
quả lắc 15 độ. Bây giờ chúng ta quay quả
lắc về hướng ngôi sao gần nhất, Proxima
Centauri, cách xa khảng 4 năm ánh sáng. Ngôi sao này lưu
lại trong hướng chỉ của quả lắc lâu
hơn, nhưng chỉ được vài năm, kết
quả cũng giạt đi. Giải thiên hà Andremoda, cách
chúng ta 2.3 triệu năm ánh sáng, cũng đi giạt ra
khỏi hướng nhưng chậm hơn. Thời gian duy
tŕ trong hướng chỉ của con lắc lâu hơn và
độ chệch cũng trở nên nhỏ hơn nếu
khoảng cách đến thiên thể càng lớn hơn. Và
rồi chỉ có những thiên hà có khoảng cách lớn
nhất, tọa lạc tận cùng bờ mép của vũ
trụ mà chúng ta có thể biết được, cách xa ta
đến hàng tỉ năm ánh sáng là không hề đi ra
khỏi hướng chỉ của con lắc.
Kết
luận mà chúng ta rút ra được từ thí nghiệm
này rất mực đặc biệt: Hoạt động
của con lắc đồng hồ Foucault không hề
dựa vào thái dương hệ này mà là vào những
giải thiên hà xa nhất, hay nói một cách đúng
đắn hơn, vào toàn thể vũ trụ, điều
này cho thấy rằng hầu như tất cả vật
chất biểu kiến được t́m thấy trong
những giải thiên hà xa xôi nhất mà không phải là
những tinh tú gần ta. Như thế cái ǵ xảy ra
ở đây, trên Trái Đất này, đều
được quyết định bởi cả toàn
thể vũ trụ bao la. Cái ǵ xuất hiện trên ngôi hành
tinh nhỏ bé này đều nương tựa vào toàn
thể cấu trúc của vũ trụ.
Tại
sao cái quả lắc đồng hồ lại ứng
xử như vậy? Quả t́nh chúng ta không biết. Nhà
vật lư Ernst Mach nghĩ rằng điều đó có
thể được giải thích là do bởi một
loại vật chất có mặt ở khắp nơi và
tạo ra ảnh hưởng. Theo ông, một khối
lượng của vật thể -tức là lực quán
tính của nó, hay là sức đề kháng đối
với chuyển động- đến từ ảnh
hưởng của toàn vũ trụ thông qua một sự
tương tác bí mật, khác biệt với trọng
lực, mà ông không thể mô tả chính xác. Từ đó,
cũng không có ai đi sâu thêm vào lănh vực này. Giống
như thí nghiệm EPR buộc chúng ta chấp nhận
rằng những tương tác hiện hữu trong thế
giới vi mô vốn khác biệt với những ǵ
được mô tả bởi khoa vật lư mà ta biết,
cái đồng hồ quả lắc Foucault cũng hành
xử tương tự như thế đối với
thế giới vĩ mô. Những tương tác như
thế không hề đặt cơ sở trên một
lực hay một sự trao đổi năng lượng,
và chúng nối kết với toàn thể vũ trụ.
Một lần nữa, chúng ta lại đi đến
một kết luận rất gần gũi với ư
niệm về duyên khởi của Phật giáo: mỗi
bộ phận đều chứa đựng cái toàn
thể, và mỗi bộ phận đều nương
tựa vào tất cả các bộ phận khác.
4.
Tánh Không hay là sự vắng mặt của một thực
tại tự thân.
Ư
niệm về duyên khởi dẫn ta đi thẳng
đến một cái ư niệm quan trọng thứ ba
của Phật giáo (hai cái kia là vô thường và duyên
khởi): đó là ‘Tánh Không’ hay ‘trống rỗng’. Một
khi tất cả đều là duyên khởi, không có ǵ có
thể tự xác định và hiện hữu tự thân. Ư
tưởng về những phẩm tính có thể hiện
hữu do và bởi chính ḿnh cần phải được
buông bỏ. Khi Phật giáo cho rằng tánh không là bản
tánh rốt ráo của vạn pháp, điều đó có
nghĩa là mọi sự vật mà chúng ta trông thấy chung
quanh ḿnh, tức là cái thế giới hiện tượng
này, không hề có một hiện hữu độc lập
hay thường hằng. ‘Tánh không’ ở đây không nên
hiểu là ‘trống không’, ‘hư không’ hay ‘vắng mặt
của thế giới hiện tượng’ như các nhà
chú giải Tây phương trước đây quan niệm,
nhưng là một vắng mặt của hiện hữu
tự thân. Phật giáo không hề tán thành bất cứ h́nh
thái nào của chủ nghĩa hư vô. Tánh không chẳng
hề mang ư nghĩa là không hiện hữu. Nếu bạn
đă không thể bàn về thực hữu th́ bạn
cũng không thể nói về phi hữu. Thế nên theo
Phật giáo, t́m hiểu về bản chất phi thực
của vạn pháp là một bộ phận thiết yếu
trên hành tŕnh tâm linh. Tánh không như vậy không phải
chỉ là bản tánh chân thật của thế giới
hiện tượng, mà c̣n ẩn chứa tiềm năng
cho phép sự biểu hiện của cái thế giới
thiên h́nh vạn trạng đó. Thánh giả Long Thọ
của Phật giáo trong thế kỷ thứ hai đă nói:
“Khi đă là không th́ không có ǵ là không có” hay như một câu
kinh nổi tiếng trong Bát Nhă Tâm Kinh: “Sắc tức
thị không, không tức thị sắc”. Nếu thực
tại là thường hằng bất biến th́ tất
cả phẩm tánh của chúng cũng thế, chẳng có ǵ
thay đổi. Như vậy, thế giới hiện
tượng đă không thể hiện bày. Tuy nhiên do bởi
vạn pháp không hề có một thực tại tự thân,
chúng có thể hiện bày ra muôn vẻ.
Về
vấn đề vắng mặt của một thực
tại tự thân, khoa vật lư lượng tử một
lần nữa cũng đă có những phát biểu
tương tự khá đậm nét. Theo Bohr và Heisenberg,
những nhân vật nhiệt thành ủng hộ của cái
gọi là “Chú giải Copenhagen” về cơ học
lượng tử, th́ bây giờ chúng ta không c̣n có thể
xem nguyên tử (atoms) và điện tử (electrons) như là
những thực thể với những phẩm tánh xác
định cụ thể, chẳng hạn như tốc
độ, vị trí, vạch ra đồng đều trên
những qũy đạo xác định rơ. Ngược
lại chúng ta phải xem chúng như là bộ phận
của một thế giới được cấu thành
bởi những tiềm lực chứ không phải là
những vật thể hay sự kiện. Ánh sáng và vật
chất có thể được xem là không có thực
tại tự thân bởi v́ chúng mang tính chất
lưỡng tánh: có thể xuất hiện dưới
dạng sóng hay hạt tùy theo thiết bị đo
lường. Cái hiện tượng chúng ta gọi là
“photon” sẽ là một luồng sóng khi chúng ta tắt
hết máy đo và không quan sát nó. Nhưng ngay lập tức
khi ta cho thiết bị hoạt động làm công việc
đo lường, nó lại xuất hiện như là
một hạt. Những mặt của hạt và sóng không
thể cách ly được. Ngược lại, chúng
bổ túc lẫn nhau. Đó là điều mà Bohr gọi là
“nguyên lư bổ túc”. Như thế, ngay trong bản tánh
thực sự của ánh sáng và vật chất cũng
đă tùy thuộc vào những mối liên hệ duyên
khởi. Nó không c̣n là một tự thân mà thay đổi tùy
theo sự tương tác giữa người quan sát và
vật thể được quan sát. Như thế nói
đến thực tại tự thân của một
hạt, hay là cái thực tại mà nó sở hữu khi không
được quan sát là điều hoàn toàn vô nghĩa bởi
v́ chúng ta không hề nắm bắt được nó. Và
như vậy, theo Bohr, cái ư niệm về “nguyên tử”
chẳng qua chỉ là một h́nh ảnh tiện dụng
giúp cho những nhà vật lư tổng hợp những quan sát
khác nhau về thế giới hạt, thành một phối
hợp chặt chẽ, luận lư có hệ thống. Ông
nhấn mạnh đến tính bất khả vượt
ra khỏi những kết quả của những thí
nghiệm và đo lường: “Trong khi mô tả về
thế giới tự nhiên, mục đích của chúng ta
không phải là để khám phá ra bản chất thực
của hiện tượng, mà chỉ nhằm theo dơi
mối liên hệ giữa rất nhiều khía cạnh
của cuộc thí nghiệm, được chừng nào hay
chừng nấy.” Schrodinger cũng đă từng cảnh báo
chúng ta chống lại một cái nh́n thuần tuư vật
chất về nguyên tử và những yếu tố cấu
thành của chúng: “Tốt nhất là không nên nh́n về
hạt như là một thực thể bất biến, mà
ngược lại như là một sự kiện tức
thời. Thỉnh thoảng những sự kiện tức
thời này được nối kết lại cùng nhau và
tạo ra cái ảo tưởng về những thực
thể bất biến.” Ngành cơ học lượng
tử như thế đă duyệt xét lại một cách
cơ bản cái ư niệm của chúng ta về một
vật thể, khi cho nó phụ thuộc vào sự đo
lường, hay nói cách khác, vào một sự kiện.
Cũng giống như trong Phật giáo, vạn pháp không
hiện hữu, chỉ có mối liên hệ của chúng là
hiện hữu.
IV.
Đi T́m Một Đấng Tối Cao.
1.
Sự ḥa điệu của vũ trụ.
Ngành
vũ trụ học đương đại đă khám
phá rằng những điều kiện cho phép đời
sống và tri thức xuất hiện trong vũ
trụ này có vẻ như được mả hoá trong các
phẩm tính của mỗi nguyên tử, tinh tú và thiên hà trong
vũ trụ, cũng như có mặt trong tất cả
những định luật vật lư chi phối, vận
hành chúng. Vũ trụ được xuất hiện trong
một hoà điệu lư tưởng như được
tạo ra để dành cho một con người quan sát
thông minh có khả năng thưởng thức cái cấu
trúc và sự ḥa điệu này. Cái ư tưởng vừa nêu
chính là cơ sở của “nhân bản thuyết” vốn
phát xuất từ danh từ “anthropos” có nghĩa là “con
người” của Hy Lạp. Về thuyết lư này, có hai
nhận xét cần được đặt ra. Thứ
nhất, cái định nghĩa mà chúng tôi vừa tŕnh bày
chỉ liên hệ đến cái mặt “mạnh” của
nhân bản thuyết. Đồng thời cũng c̣n có một
mặt “yếu” cho là không giả định trước
bất cứ ư hướng nào trong việc tạo thành
thiên nhiên. Nó có vẽ như rất gần với phép
lặp thừa (**) -những phẩm tánh của vũ
trụ phải được tương xứng với
sự có mặt của con người- và đây là
điều mà tôi cũng sẽ không bàn thảo đến.
Thứ hai, cụm từ “nhân bản thuyết” là không thích
đáng bởi v́ nó hàm ư rằng nhân loại là mục
đích mà vũ trụ được tạo ra. Trong
thực tế, những lập luận về nhân bản
thuyết có thể được áp dụng cho bất
kỳ các loài có tri giác nào ở trong vũ trụ.
Đâu
là cơ sở khoa học của nhân bản thuyết? Cách
thế mà vũ trụ của chúng ta được
tạo ra dựa vào hai loại dữ kiện: 1) những
điều kiện sơ khởi, cụ thể như
tổng số khối lượng và năng lượng
mà chúng có, độ trương nở ban đầu, v.vÖ
và 2) khoảng 15 hằng số vật lư: hằng số
trọng lực, hằng số Plank, tốc độ ánh
sáng, khối lượng của các hạt cơ bản
không phân tách được, v.vÖ Chúng ta có thể đo
được trị số của những hằng
số này một cách cực kỳ chính xác, tuy nhiên chúng ta
không có bất cứ lư thuyết nào để tiên đoán
chúng. Bằng cách cấu trúc “những mô h́nh vũ trụ”
với những điều kiện sơ khởi và
những hằng số vật lư, những nhà vật lư
không gian đă khám phá ra một điều rằng tất
cả những yếu tố này phải được
phối trí trong một trật tự cực kỳ hoà
điệu: chỉ cần một sai biệt cực
nhỏ trong những hằng số vật lư và những
điều kiện sơ khởi này th́ chúng ta hẵn
đă không có mặt ở đây để nói về chúng.
Cụ thể như, chúng ta hăy xem cái tỷ trọng ban
đầu của vật chất trong vũ trụ.
Vật chất có một lực kéo phản
ứng lại với lực trương giản của
vũ trụ gây ra bởi vụ nổ Big Bang và làm tiết
giảm độ trương nở của vũ trụ.
Nếu cái tỷ trọng ban đầu này quá cao, vũ
trụ sẽ sụp đổ sau một thời gian
tương đối ngắn ngủi -một triệu
năm, một thế kỷ, hoặc một năm không
chừng, tùy theo độ chính xác của tỷ trọng.
Với một sinh mệnh ngắn ngủi như thế
rất khó cho những tinh tú có thể hoàn tất
được sự biến đổi hạt nhân để
có thể sản xuất ra những nguyên tố nặng,
cụ thể như các-bon vốn cần thiết cho
đời sống. Ngược lại, nếu tỷ
trọng ban đầu của vật chất quá thấp,
sẽ không có đủ trọng lực để những
v́ sao có thể h́nh thành. Và không có những v́ sao, tức là
không có những nguyên tố nặng, và không thể có
đời sống! Như vậy, tất cả mọi
vật đều được duy tŕ ở trong một
trạng thái quân b́nh hoàn hảo. Tỷ trọng ban đầu
của vũ trụ phải được cố
định ở một con số thật chính xác là 10^-60.
Sự chính xác tuyệt vời này có thể được
đem so sánh với một tay bắn cung thiện nghệ
nhắm trúng mục tiêu 1centimet vuông (1cm2) được
đặt cách xa 14 tỷ năm ánh sáng, ngay tận
đầu bờ vũ trụ mà khả năng ta có thể
quan sát được! Mức chính xác của sự ḥa
điệu biến đổi tùy theo hằng số
đặc biệt hay điều kiện ban đầu,
thế nhưng trong mỗi trường hợp, chỉ
một thay đổi nhỏ cũng đủ làm cho vũ
trụ khô cằn, trống vắng sự sống và ư
thức.
2.
Có một nguyên lư nào chi phối cấu trúc vũ trụ?
Chúng
ta suy nghĩ như thế nào trước một sự ḥa
điệu tuyệt vời như thế? Với tôi, h́nh
như chúng ta có hai cách thế chọn lựa khác nhau: Có
thể xem sự hoà điệu này là hệ quả của
một t́nh cờ may mắn hoặc là một tất
yếu (nói theo nhan đề một cuốn sách của nhà
sinh vật học Pháp, Jacques Monod, “Ngẫu Nhiên và Tất
Yếu,” Alfred A. Knoff, New York, 1971). Nếu xem đây chỉ
là một ngẫu nhiên, th́ chúng ta phải mặc nhận
một số lượng vô hạn những vũ trụ
khác bên cạnh vũ trụ của chúng ta cấu thành cái được
gọi là ‘đa vũ trụ’. Mỗi một vũ trụ
này sẽ bao gồm một phối hợp của riêng ḿnh
với những hằng số vật lư và điều kiện
sơ khởi. Tuy nhiên chỉ riêng vũ trụ của chúng
ta là được khai sanh ra bởi một tổng
hợp hoàn chỉnh để có thể tạo nên sự
sống. Tất cả đều là những kẻ
thua cuộc, chỉ có chúng ta là người thắng
cuộc, giống như bạn chơi xổ số vô
số lần, kết cuộc có ngày bạn cũng sẽ
trúng số. Ngược lại, nếu chúng ta bác bỏ
giả thiết cho rằng có một cái đa vũ trụ
như thế và mặc nhiên công nhận rằng chỉ có một
vũ trụ đơn lẽ, cái mà chúng ta đang sống,
thế th́ chúng ta phải mặc nhận sự hiện
hữu của một nguyên lư về sáng tạo đă điều
chỉnh sự tiến triển của vũ trụ
một cách tốt đẹp.
Làm
thế nào để chọn lựa giữa hai khả
năng này? Khoa học không giúp ích được ǵ cho chúng
ta ở đây bởi v́ nó cho phép cả hai t́nh huống
đều có thể xảy ra. Nếu xem đây là một
t́nh cờ, có rất nhiều cách được đưa
ra để giải thích về sự sáng tạo một
đa vũ trụ. Cụ thể như, nghiên cứu chung
quanh xác suất miêu tả về thế giới lượng
tử, nhà vật lư học Hugh Everett đă đề
xuất rằng vũ trụ tách ra thành vô số
những cái giống hệt nhau tùy theo những khả
năng và chọn lựa được thực hiện.
Một vài vũ trụ chỉ khác nhau bởi vị trí
của một electron trong một nguyên tử, những cái
khác có thể khác biệt căn bản hơn. Những
định luật vật lư và hằng số cũng
như những điều kiện sơ khởi của
chúng có thể không giống nhau. Một giả thuyết
khác cho là trong một chu kỳ tuần hoàn của vũ
trụ, đă có một loạt những vụ nổ Big
Bang và Big Crunch. Bất cứ lúc nào vũ trụ
được tái sanh từ đống tro tàn của ḿnh
để bắt đầu lại trong một vụ
nổ Big Bang mới, nó lại được khởi
đầu với một tổng hợp mới của
những hằng số vật lư và điều kiện
sơ khởi. Cũng c̣n một giả thiết khác
nói về sự sáng tạo vũ trụ, đó là lư
thuyết do nhà vật lư Andrei Linde và một số
người khác đề ra, cho rằng mỗi một
trong vô số lượng những đám bọt
lượng tử sơ khai trôi nổi bập bềnh
trong không gian đă cấu thành vũ trụ. Như thế
th́ vũ trụ của chúng ta chỉ là một cái bong bóng
nhỏ trong một cái siêu vũ trụ được
tạo nên bởi vô số những cái bong bóng khác. Ngoại
trừ cái của chúng ta, không có cái nào trong số những
vũ trụ đó nuôi dưỡng được sự
sống bởi v́ những hằng số vật lư và
những định luật của chúng đă không thích
hợp.
3.
Không hề có một Đấng Sáng Tạo trong Phật
Giáo.
Như
vậy, thái độ của Phật giáo liên quan
đến sự ḥa điệu phi thường này như
thế nào? Phật giáo có chấp nhận ư niệm có
một Đấng Sáng Tạo toàn tri hay là một nguyên lư
sáng tạo có khả năng điều chỉnh sự
tiến triển của vũ trụ một cách tuyệt
vời? Hay Phật giáo cho rằng sự ḥa điệu
chính xác và tuyệt vời của vũ trụ chẳng qua
chỉ là một t́nh cờ may mắn? Vấn đề có
hay không một Đấng Sáng Tạo là một điểm
then chốt trong việc phân biệt giữa Phật giáo
với các truyền thống tín ngưỡng lớn trên
thế giới. Đối với Phật giáo, ư niệm
về một “nguyên nhân đầu tiên” không hề
được đặt ra để lư giải do bởi
ư niệm về tánh không và duyên khởi đă
được bàn đến trước đây. Phật
giáo xem vấn đề “sáng tạo” là không liên quan bởi
v́ theo họ, thế giới hiện tượng thực
sự không được sinh ra, trong cái ư nghĩa là
chúng trải qua t́nh trạng từ phi hữu trở thành
hiện hữu. Chúng có mặt trong một cách thế
được gọi là “tục đế” và không hề
là một thực tại chân thực. Tục đế hay
thực tại quy ước có mặt do sự cảm
nghiệm của ta về một thế giới mà chúng ta
cho rằng trong đó mọi sự vật hiện hữu
một cách khách quan. Phật giáo quan niệm rằng
những nhận thức như thế là sai lầm bởi
v́ thế giới hiện tượng, nh́n một cách
rốt ráo không phải là những thực tại khách quan,
có nghĩa là chúng không hề là những hiện hữu tự
thân. Đây được gọi là “chân đế”. Trong
những ư nghĩa này, vấn đề sáng tạo trở
thành một vấn nạn giả. Cái vấn nạn về
một “nguồn gốc nguyên thủy” chỉ bắt
nguồn từ sự xác tín vào thực tại tuyệt
đối của thế giới hiện tượng. Cái
ư tưởng về sáng tạo chỉ cần thiết khi
chúng ta tin là có một thế giới khách quan. Nó tan biến
đi khi chúng ta nhận thức rằng thế giới
hiện tượng, cho dù là chúng ta có thể thấy chúng
rơ ràng, không hề có một hiện hữu độc
lập, “khách quan”. Và một khi sự sáng tạo không c̣n là
một vấn đề, ư niệm về Đấng Sáng
Tạo cũng không c̣n là một yêu cầu được
đặt ra.
Tuy
nhiên, quan điểm của Phật giáo không hề loại
bỏ cái khả năng về một sự hiện bày
của thế giới hiện tượng. Một
điều hiển nhiên, cái thế giới mà chúng ta nh́n
thấy chung quang ḿnh không phải là phi hữu, tuy nhiên
Phật giáo cho rằng nếu chúng ta khảo xét cách thế
mà chúng hiện hữu, chúng ta sẽ nhận ra ngay là chúng
không thể được xem như bao gồm một
loạt những thực thể độc lập, có
hiện hữu tự thân riêng biệt. Nhà triết học
lớn của Phật giáo Ấn Độ vào thế
kỷ thứ hai, Thánh giả Long Thọ, đă nói: “Bản
tánh của vạn pháp là duyên khởi; tự nó, vạn pháp không
hề có tự tánh”. Như thế sự tiến triển
của chúng không phải do t́nh cờ may mắn mà cũng
không phải bởi một sự can dự thiêng liêng nào.
Thay vào đó chúng bị chi phối bởi luật nhân
quả trong một mối liên hệ duyên khởi và nhân
quả hổ tương bao trùm lên tất cả. Bởi
v́ vạn pháp không hề có thực tại độc
lập, chúng không thể nào ‘bắt đầu’ và ‘kết
thúc’ một cách thực sự như là những thực thể
tách biệt.Và như thế, ư niệm về một sự
khởi đầu và kết thúc của vũ trụ
thuộc về tục đế chứ không phải chân
đế.
Như
vậy, quan điểm này phù hợp với nền khoa
học vũ trụ đương đại như
thế nào? Chúng ta thấy duy chỉ có loại vũ
trụ không có khởi điểm và tận cùng là loại
vũ trụ tuần hoàn với một loạt những
vụ nổ vô tận của Big Bang và Big Crunch ở trong
quá khứ và tương lai. Thế nhưng cái trạng
huống mà trong đó vũ trụ của chúng ta tự
sụp đổ vào một ngày nào đó bởi một Big
Crunch có vẻ như không phù hợp với những quan sát
đương đại khi cho rằng mật độ
khối lượng của những quang chất (0.5% trong
tổng số khối lượng và năng lượng
tích chứa trong vũ trụ), vật chất tối
(29.5%) và năng lượng tối (70%) cọng lại
với nhau chỉ là cái tỷ trọng tới hạn.
Điều này có nghĩa rằng cái h́nh học của
vũ trụ là một h́nh học phẳng, tức là nó
sẽ trương giản đến bất tận và
độ gia tốc trương giản này sẽ không
đi đến số không sau một khoảng thời
gian vô tận ở tương lai. Như thế, với
mức độ kiến thức hiện nay có vẻ
như chưa chấp nhận được ư niệm
về một loại vũ trụ tuần hoàn.
4.
Những Suối Nguồn của Ư Thức Cộng Hữu
Với Thế Giới Vật Chất.
Bây
giờ trở lại vấn đề nhân bản
thuyết. Theo như Phật giáo quan niệm, sự hoà
điệu tuyệt vời của vũ trụ đủ
để cho ư thức xuất hiện không hề là công
tŕnh của một Đấng Tối Cao nào cả, bởi
v́ nhân vật này không hề hiện hữu. Đây cũng
không phải là sản phẩm của một t́nh cờ may
mắn mà những người ủng hộ lư thuyết
về một đa vũ trụ đề xuất: chúng ta
có mặt và sống ở đây, trong vũ trụ này,
chỉ là một ngẫu nhiên đầy may mắn do
sự phối hợp chính xác của những hằng
số và điều kiện vật lư. Phật giáo cho
rằng cái vũ trụ vật chất này và ư thức
đă luôn cộng hữu với nhau từ vô thủy.
Để cộng hữu, cái thế giới hiện
tượng này phải phù hợp một cách hổ
tương, và do đó tạo ra sự ḥa điệu
kỳ diệu. Cái sau sinh khởi bởi v́ vật chất
và ư thức không thể loại trừ nhau, và bởi v́
chúng có mối liên hệ duyên khởi. Quan điểm này phù
hợp như thế nào với khoa sinh học thần kinh
đương đại? Khoa sinh vật học quả là
vẫn đang c̣n trên một lộ tŕnh dài lâu mới có
khả năng lư giải được nguồn gốc
của ư thức Tuy nhiên, đại đa số những
nhà sinh vật học quan niệm rằng không cần
thiết giả định rằng những suối
nguồn của ư thức cộng hữu với vật
chất, bởi v́ theo họ, cái sau có thể xuất
hiện từ cái trước, rằng tâm thức có
thể sinh khởi từ vật chất. Tâm thức phát
sinh một khi mà hệ thống của những tế bào
năo bộ trong các sinh vật đạt đến
ngưỡng cửa của một phức hợp. Trên quan
điểm này, ư thức đă xuất hiện, cũng
giống như sự sống, từ sự phức hợp
của những nguyên tử vô sinh.
Đến
đây một câu hỏi được đặt ra:
Một khi Phật giáo cho rằng ư thức được
phân ĺa và vượt qua t́nh trạng vật lư, phải
chăng Phật giáo cũng rơi vào chủ nghĩa
nhị nguyên tâm-thân phân ĺa của Descartes, qua đó cho
rằng có hai loại thực tại, một của tâm (hay
tư tưởng) và một của thế giới vật
chất? Câu trả lời là không. Quan điểm của
Phật giáo hoàn toàn khác biệt từ căn bản với
chủ nghĩa nhị nguyên của Descartes. Chỉ có
một sự khác biệt trên mặt tục đế
giữa vật chất và ư thức, bởi v́ ở
điểm tận cùng, cả hai đều không có một
hiện hữu tự thân. Bởi v́ Phật giáo bác
khước cái thực tại rốt ráo của thế
giới hiện tượng, nó đồng thời cũng
bác khước luôn cái ư tưởng cho rằng ư thức là
độc lập và hiện hữu tự thân.
V.
Khoa Học và Tâm Linh: Hai Cửa Sổ Mở Vào Thực
Tại.
Vừa
rồi chúng tôi đă cố gắng chứng tỏ rằng
đă có những điểm đồng quy nổi bật
giữa quan điểm về thực tại của
Phật giáo và nền khoa học đương
đại. Ư niệm về “vô thường”, một ư
niệm then chốt trong Phật giáo, tương ứng
với ư niệm về tiến hoá trong khoa học về
vũ trụ, địa chất và sinh vật. Không có ǵ
ở trong thể tĩnh, tất cả đều thay
đổi, chuyển động và tiến triển,
từ một hạt nguyên tử cực nhỏ cho
đến một cấu trúc lớn lao nhất trong vũ
trụ. Vũ trụ tự nó cũng đă có một
lịch sử. Thuyết tiến hoá của Darwin kết
hợp với sự chọn lọc tự nhiên chi phối
những đổi thay liên tục trong thế giới sinh
vật. Ư niệm về “duyên khởi”, cũng là trọng
tâm của giáo lư Phật giáo, cộng hưởng với
tính toàn thể, bất khả phân của không gian
được hàm chứa trong thí nghiệm EPR về các
cấp độ nguyên tử và hạ nguyên tử, cùng
với thí nghiệm quả lắc Foucault về các tầng
vũ trụ. Ư niệm về “tánh không” của Phật giáo,
với sự vắng mặt về sự hiện hữu
của một thế giới hiện tượng
thường hằng và độc lập, tương
đương với tính chất lưỡng tánh của
ánh sáng và vật chất trong thế giới lượng
tử của khoa học. Bởi v́ một photon sẽ là
sóng khi ta không quan sát chúng và là hạt khi ta đo
lường, thế nên ta có thể nói là nó không có một
hiện hữu độc lập, tự thân, sự
xuất hiện của nó hoàn toàn tùy thuộc vào
người quan sát.
Chúng
tôi cũng đă nêu rơ rằng Phật giáo phản bác cái ư
niệm về một sự khởi đầu của
vũ trụ cũng như về một vị Thượng
Đế hay là một nguyên lư sáng tạo có khả năng
ḥa điệu những phẩm tánh của ḿnh, từ
đó tạo điều kiện cho ư thức xuất
hiện. Phật giáo cho rằng ư thức cộng hữu
với vật chất nhưng không hề bắt nguồn
từ vật chất. Bởi v́ cả hai đều
tương tác và duyên khởi nên không cần thiết
phải điều chỉnh thế giới vật
chất để phục vụ cho ư thức trong một
thể hoà điệu.
Những
điểm đồng quy nói trên không có ǵ là đáng
ngạc nhiên bởi v́ cả khoa học lẫn Phật giáo
đều đă sử dụng những tiêu chuẩn nghiêm
nhặt và chân xác để vươn đến chân lư.
Bởi v́ mục tiêu của cả hai là mô tả thực
tại, họ phải gặp nhau ở những mẩu
số chung mà không hề loại trừ nhau. Trong khoa học,
những phương pháp cơ bản để khám phá
sự thật là thí nghiệm và lư thuyết hóa dựa vào
phân tích; trong Phật giáo, quán tưởng là phương
pháp chính. Cả hai đều là những cánh cửa sổ
cho phép ta hé nh́n vào thực tại. Cả hai đều
vững vàng trong những phạm trù chuyên biệt của
ḿnh và bổ túc lẫn nhau. Khoa học khám phá dùm ta những
kiến thức “qui ước”. Mục tiêu của nó là
hiểu rơ thế giới hiện tượng. Những áp
dụng kỹ thuật của nó có thể gây nên những
hệ quả xấu hay tốt đối với
đời sống thể chất của con
người. Thế nhưng quán tưởng, khi giúp ta
nh́n rơ bản tánh chân thật của thực tại, có
mục đích cải thiện nội giới để ta
có thể hành động nhằm cải thiện
đời sống của tất cả mọi
người. Những nhà khoa học c̣n sử dụng
đến những thiết bị tối tân hơn
để khám phá thiên nhiên. Trái lại trong h́nh thức
tiếp cận bằng quán tưởng, thiết bị duy
nhất là tâm. Hành giả quán sát những tư tưởng
của ḿnh được đan kết lại cùng nhau
như thế nào và dính mắc vào y ra sao. Y khảo sát cái
cơ chế vận hành của hạnh phúc và đau
khổ để từ đó cố gắng khám phá ra
những tiến tŕnh tâm linh nhằm nâng cao sự an b́nh
nội tâm, làm cho cơi ḷng ḿnh rộng mở hơn
đối với tha nhân để giúp họ cùng phát
triển, cũng như từ đó thấy rơ
được những tiến tŕnh gây ra những hệ
quả độc hại để loại bỏ chúng.
Khoa học cung cấp cho ta những dữ kiện,
nhưng không mang lại sự tiến bộ tâm linh và
chuyển hoá. Trái lại sự tiếp cận tâm linh hay
quán tưởng chắc chắn phải đưa ta
đến một sự chuyển hoá bản thân sâu sắc
trong cách thế mà chúng ta nhận thức về thế
giới để dẫn đến hành động. Hành
giả Phật giáo một khi nhận thức rằng
vật thể không hề có hiện hữu tự thân
sẽ giảm thiểu sự dính mắc vào chúng, từ
đó giảm bớt khổ đau. Nhà khoa học, với
cùng một nhận thức như thế, sẽ xoa tay hài
ḷng, xem đó như là một tiến bộ tri thức
hầu sử dụng vào những công tŕnh nghiên cứu khác,
sự khám phá này không hề làm thay đổi thị
kiến cơ bản của y đối với thế
giới và cách thức mà y hướng dẫn đời
sống của ḿnh.
Khi
đối diện với những vấn đề
đạo đức hay luân lư ngày càng có nhiều sức
ép, đặc biệt là trong lănh vực di truyền
học, khoa học cần đến sự trợ giúp
của tâm linh để khỏi bỏ quên đi nhân
tính của ḿnh. Einstein đă phát biểu một câu nói
rất đáng tán thưởng về nhu cầu cần
đến sự hợp nhất giữa khoa học và tâm
linh: “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo
hoàn vũ. Nó sẽ phải vượt qua một vị
Thượng Đế có nhân trạng và tránh xa những
học thuyết lẫn giáo điều. Bao gồm cả
khoa học tự nhiên và tâm linh, nó sẽ phải
được đặt căn bản trên một ư
thức tôn giáo phát khởi từ cảm nghiệm về
tất cả mọi sự vật, khoa học tự nhiên
lẫn tâm linh, và đây được xem như một
sự hợp nhất đầy ư nghĩaÖ Phật giáo là
câu trả lời cho sự mô tả nàyÖ Nếu có bất
kỳ một tôn giáp nào có thể đáp ứng
được những nhu cầu của nền khoa
học đương đại, th́ đó chính là Phật
giáo.”
Trịnh
Xuân Thuận.
(All
rights reserved)
Đề
nghị tham khảo thêm:
Chủ
đề được bàn thảo ở đây đă
được khai triển một cách chi tiết hơn
trong:
Ricard,
Matthieu, and Thuan, Trinh Xuan, “The Quantum and the Lotus,” New York, Crown,
2001; Paperback edition: New York, Three Rivers Press, 2004
Trong
hơn 20 năm qua, đă có một loạt những gặp
gỡ chung quanh chủ đề ‘Mind and life’ giữa
Đức Đạt Lai Lạt Ma và một số
những nhà khoa học nổi tiếng trên các lănh vực
thần kinh sinh vật học, phân tâm học, triết
học và vật lư học. Trọng tâm của những
cuộc gặp gỡ này là thảo luận về tâm
bởi v́ Phật giáo từ hơn 25 thế kỷ qua
đă đề ra một phương cách tiếp cận
rất sâu sác và nghiêm nhặt để t́m hiểu các
tạng thái tâm thức và bản chất rốt ráo của
tâm, có thể mang dến những lợi ích cho khoa thần
kinh sinh vật học phương Tây. Nội dung những
cuộc gặp gỡ này đă được xuất
bản:
Goleman,
Daniel, ed., Healing Emotions: Conversations with the Dalai Lama on
Mindfulness, Emotions and Health, Boston, Shambhala Publications, 1997
----.
Destructive Emotions: A scientific Dialogue with the Dalai Lama, New York,
Bantam Doubleday, 2002
Hayward,
Jeremy W., Shifting Worlds Changing Minds: Where the Sciences and Buddhism
Meet, Boston, Shambala Publications, 1987
Houshmand,
Zara, Livingston, Robert B., Wallace, B. Alan, eds. Consciousness at the
Crossroads: Conversations with the Dalai Lama on Brainscience and Buddhism,
Ithaca, New York, Snow Lion Publications, 1999
Varela,
Francisco, J. ed., Sleeping, Dreaming and Dying: An Exploration of
Consciousness with the Dalai Lama, Boston, Wisdom Publications, 1997
Varela,
Francisco, J. and Hayward, Jeremy, eds., Gentle Bridges: Conversations with the
Dalai Lama on the Sciences of Mind, Boston, Shambhala Publications, 2001
Zajonc,
Arthur, ed., The New Physics and Cosmology: Dialogues with the Dalai Lama, New
York, Oxford University Press, 2004
Ngoài
ra một số công tŕnh khác thảo luận về
những mối tương quan giữa khoa học và
Phật giáo:
Wallace,
B. Alan, The Taboo of Subjectivity: Toward a new science of consciousness, New
York, Oxford University Press, 2000
----
ed. Buddhism and Science: Breaking New Ground, New York, Columbia University Press,
2003.
Chú
thích của dịch giả:
(*) mythos
: Giữ đúng nguyên văn danh từ Hy Lạp mà tác
giả dùng trong bài viết, có nghĩa là thần thoại.
(**) Phép
lặp thừa (tautology): Trong luận lư học, đây
là một mệnh đề rỗng bao gồm những
mệnh đề đơn giản hơn làm cho nó trở
thành đúng, phù hợp với logic cho dù những mệnh
đề nhỏ này có thể đúng hoặc sai. Thí
dụ: Ngày mai trời có thể mưa hay không mưa.
Một
số thuật ngữ Vật lư:
-
Big Bang: Vụ
nổ lớn.
-
Big Crunch: Vụ co
rút lớn.
-
Critical density:
Tỷ trọng tới hạn.
-
Cyclical universe:
Vũ trụ tuần hoàn.
-
Dark matter: Vật
chất tối.
-
Dark energy: Năng
lượng tối.
-
Fleeting neutrinos:
neutrinos phù du.
-
Luminous matter: Quang
chất.
-
Mass densities: Mật
độ khối lượng.
-
Non-locality: Tính phi
cục bộ (theo GSTS Hồng Dương Nguyễn Văn
Hai). TS (Vật lư) Nguyễn Tường Bách dịch là “Tính
liên thông”.
-
Natural selection:
Chọn lọc tự nhiên.
-
Reductionist method: Phép
quy giản.