(Lê Bá Thông chuyễn ngữ)
Nhiệm vụ của trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam là dạy dỗ và huấn luyện Sinh Viên Sĩ Quan để mỗi Sinh Viên có một khả năng cần thiết cho sự tiến triển và tăng trưởng cuộc đời binh nghiệp của một Sĩ Quan thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng ḥa, được chứng tỏ qua những tác phong như sau: 1. Đức tính toàn năng và
khả năng lănh đạo của cấp Chỉ huy. Bao gồm trong nhiệm vụ này
là các mục tiêu kể sau: Để có thể hoàn thành sứ mạng huấn luyện nói trên, trường Vơ Bị Quốc Gia đă tổ chức thành một Bộ Chỉ huy và 3 thành phần chính yếu sau đây: 1.Văn Hóa Vụ * Văn Hóa Vụ: Trách
nhiệm phụ trách dạy các lớp học và các môn
học. Mặc dù trường Vơ Bị đă thuê nhiều
giáo sư dân sự, tuy nhiên phần đông các giáo sư
huấn luyện viên là Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam
Cọng ḥa, tốt nghiệp từ các trường Đại
học trong nước hoặc ngoại quốc, với
cấp bằng ít nhất là Cử nhân. Trường Vơ
Bị Quốc Gia cũng giúp phương tiện cho
những giáo sư nào muốn theo học để lấy
bằng Cao học và Tiến sĩ tại các Đại
học trong quốc nội hay ở ngoại quốc. Trường Vơ Bị gồm tất cả những căn nhà được kiến trúc bắt đầu từ năm 1961. Các Sinh viên Sĩ quan cư ngụ hai hoặc ba người trong một pḥng ngủ của 4 doanh trại, mỗi doanh trại gồm 100 pḥng ngủ. Một phạn xá rộng lớn có khả năng dọn ăn cho 1200 người một lúc. Sinh viên Sĩ quan được tổ chức thành Trung đoàn gồm hai Tiểu đoàn, mỗi Tiểu đoàn có 5 Đại đội. Ngoài ra c̣n có Hệ thống chỉ huy và chương tŕnh huấn nhục cho tân Sinh viên giống như chương tŕnh tương tự tại West Point.Sinh viên của trường Vơ Bị Quốc gia Việt Nam liên lạc mật thiết với West Point qua một Sinh viên lớp niên trưởng. Khóa 25 rất hănh diện v́ có người bạn cùng khóa là Sinh viên Phạm Minh Tâm đang thụ huấn tại trường West Point và sẽ tốt nghiệp từ trường Vơ Bị này vào năm 1974. Không giống như các trường Đại học quân sự Hoa kỳ v́ không có sự chỉ định trực tiếp các Sinh viên được thu nhận theo học trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam. Để được thu nhận thụ huấn, các ứng viên dân sự phải hội đủ các điều kiện sau đây: 1. Từ 17 đến 22 tuổi. Lịch sử của Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam bắt đầu từ tháng 12 năm 1948 khi Pháp thành lập trường Sĩ quan Hiện dịch Việt Nam tại Huế. Năm 1950, trường này được dời lên Đà Lạt và có tên là " École Militaire Inter-Armés". Cho đến năm 1954, tất cả các Chỉ huy trưởng và huấn luyện viên đều là người Pháp. Việt Nam lần hồi đảm trách việc kiểm soát sau khi Hiệp định Genève kư kết và trường được đổi tên là "Trường Vơ Bị Liên Quân Đà Lạt" phiên dịch từ tên bằng tiếng Pháp trước đây. Vào tháng 7 năm 1959, Tổng Thống Việt Nam Cộng ḥa kư Nghị định thành lập "Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam"(The Vietnamese National Military Academy) với Sinh viên tốt nghiệp có tŕnh độ Đại học. Mặc dù trên lư thuyết, Nghị định này đặt sự giáo huấn của trường Vơ Bị ngang hàng với các trường Đại học Sài g̣n, Huế và Đà Lạt, chương tŕnh học tại Vơ Bị chỉ kéo dài trong 3 năm và tŕnh độ tương đương không được chấp nhận. Chương tŕnh học bốn năm được chấp thuận năm 1961 nhưng chỉ có hiệu lực chưa đầy một năm v́ kể từ tháng 8 năm 1962 do sự thiếu hụt Sĩ quan cấp dưới, trường VBQGVN được đặt dưới sự huấn luyện trong thời chiến và chương tŕnh chỉ kéo dài trong 2 năm. Nhận thức được sự cần thiết đào tạo tài năng trẻ hầu có thể kiến thiết đất nước, Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ, vào ngày 13 tháng 12 năm 1966, kư Nghị định thành lập chương tŕnh học 4 năm và từ đó Sinh viên trường VBQGVN có tŕnh độ học vấn tương đương với bất cứ trường Đại học 4 năm khác tại Việt Nam. Chương tŕnh huấn luyện hiện nay tại trường VBQGVN về phương diện tổng quát cũng giống như chương tŕnh tại West Point. Tuy nhiên trường VBQGVN có trách nhiệm huấn luyện và đào tạo Sĩ quan cho cả 3 Quân Binh chủng, hầu như bao gồm chương tŕnh của West Point, Annapolis và Air Force Academy tại Hoa kỳ. Khóa 25 sẽ tốt nghiệp vào tháng 12 năm 1972 là khóa đầu tiên thụ huấn chương tŕnh "ba ngành" (tri-service) này được áp dụng từ năm 1970. Lư thuyết căn bản của chương tŕnh huấn luyện "ba ngành" là trong hai năm đầu thụ huấn, tất cả Sinh viên Sĩ quan đều theo chương tŕnh học về văn hóa và quân sự như nhau. Vào cuối năm thứ hai, Sinh viên được chia ra cho ba quân chủng: Bộ binh, Hải quân và Không quân, với 1/8 tổng số cho Hải quân, 1/8 cho Không quân và 3/4 quân số cho Bộ binh. Trong hai năm sau cùng, các Sinh viên Sĩ quan Hải quân và Không quân sẽ được huấn luyện với một chương tŕnh văn hóa cải biến và sẽ được huấn luyện quân sự với các quân chủng liên hệ. Cũng như tại West Point, niên học được chia làm hai giai đoạn: mùa văn hóa và mùa huấn luyện quân sự. Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam dạy văn hóa từ giữa tháng 3 cho đến giữa tháng 12 và chia ra làm hai cá nguyệt. Mùa huấn luyện quân sự mà trong thời gian này Sinh viên được nghỉ phép hai tuần lễ, được kéo dài từ giữa tháng 12 đến giữa tháng 3. Thời tiết tốt tại Đà Lạt vào những tháng 12, tháng giêng, tháng 2 và tháng 3 rất thuận tiện cho việc huấn luyện quân sự, đó là lư do của sự khác biệt về thời biểu và chu kỳ huấn luyện giữa trường VBQGVN và các quân trường tại Mỹ. Chương tŕnh văn hóa gồm các môn học dạy về khoa học thuần túy, khoa học ứng dụng và nhân chủng học. Trong khoa học thuần túy- toán học, vật lư và hóa học- Sinh viên học, suy nghĩ và t́m hiểu lư do, phân biệt những yếu tố căn bản để suy luận và t́m ra kết luận cho vấn đề. Những khóa học này cung cấp căn bản hiểu biết vững vàng cho Sinh viên để có thể tiến tới trong khoa học áp dụng và chuẩn bị cho họ xử dụng khả năng trong các công tác kiến thiết quốc gia. Những lớp học về kỹ sư cầu cống, xa lộ và phi trường, bản đồ, khảo sát được hoạch định phát huy khả năng các chuyên gia để có thể h́nh thành bản đồ cho quốc gia, khảo sát và xây cất xa lộ, đường xe lửa, phát triển và bảo tŕ thương cảng và kiến thiết và sửa chữa cầu cống. Trong môn học về kỹ sư điện khí, ngoài việc học về nguyên tắc căn bản của máy thu thanh, xe cộ và vũ khí, Sinh viên c̣n được mở mang sự hiểu biết để có thể giúp họ phụ trách về các công dụng điện khí trong nước. Để cân bằng thời biểu huấn luyện văn hóa, vào khoảng 40% chương tŕnh huấn luyện chú trọng về xă hội học và nhân chủng học. Một vài khóa học này có giá trị trực tiếp và thực tiễn trong khi vài lớp học khác có mục đích đi sâu vào sự hiểu biết về thế giới và vai tṛ của Sinh viên trong việc phát triển văn hóa dân tộc. Sau đây là thời biểu măn khóa của các lớp Sinh viên Sĩ quan. Khóa 25 sẽ tốt nghiệp vào năm 1972; khóa 26 tốt nghiệp vào năm 1973, vân... vân... Huấn luyện quân sự chiếm khoảng 50% của thời gian thụ huấn 4 năm . Mỗi Sinh viên theo học và tham gia vào một chương tŕnh huấn luyện thể chất, thể dục kể cả việc theo học Taekwondo, môn vơ judo-karate của Đại hàn. Tất cả Sinh viên Bộ binh đều phải theo học khóa Nhảy dù và Biệt động quân. Lư thuyết MacArthur về sự tranh tài và nhấn mạnh vào toàn năng về thể lực để dạy ḷng hăng say, quyết tâm chiến thắng, đức tính cần thiết giúp cho chiến sĩ trên trận mạc đă được phát huy rất nhiều trong các Sinh viên của trường VBQGVN.Sinh viên Vơ Bị c̣n được huấn luyện về căn bản quân sự và chuyên môn cùng một lúc với các khóa tâm lư chiến, quân sử và lănh đạo chỉ huy để dạy Sinh viên có một khả năng nghề nghiệp và hiểu biết vững chăi, sẵn sàng nhận những chức vụ chỉ huy và tham mưu cao hơn. Quyết tâm và mục đích của các Sĩ quan tốt nghiệp từ trường VBQGVN về việc tái thiết đất nước, bảo vệ quê hương và phát huy ḷng kiêu hănh của Quốc gia được bao gồm trên huy hiệu của trường Vơ Bị. Huy hiệu gồm có một tấm khiên màu xanh với h́nh thể Việt Nam in bằng màu trắng. Ôm ṿng bản đồ Việt Nam là h́nh một con rồng vàng, trên khung viền màu đỏ, hàm răng rồng ngậm chặt thanh kiếm. Màu xanh tượng trưng cho ư chí kiêu hùng của Sinh viên Sĩ quan, màu đỏ tượng trưng cho sự hy sinh của dân tộc Việt trong nhiệm vụ bảo vệ quê hương. Con rồng vàng là biểu tượng con Rồng cháu Tiên của ḍng giống Lạc Việt và thanh kiếm nói lên ư chí con nhà vơ biền của người Việt Nam sẵn sàng chống giữ đất nước thân yêu. Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam đă đào tạo nhiều lănh tụ của Việt Nam. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tốt nghiệp khóa 1 vào năm 1948, khi trường c̣n ở tại Huế, Tống Thống Thiệu cũng đă hai lần giữ chức vụ Chỉ huy trưởng trường VBQGVN vào những năm 1955-1956 và 1957-1959.Để kết luận, người ta không thể nào không so sánh sự thành h́nh và phát triển của trường VBQGVN với trường West Point. Vào thời kỳ đầu và giữa thế kỷ của năm 1800, Hoa kỳ đă đối diện với t́nh h́nh tương tự- sự bành trướng, phát triển của tài nguyên quốc gia, sự tranh chấp bằng vũ lực và việc nới rộng kiểm soát của chính quyền. Với công tŕnh đóng góp vào công cuộc kiến thiết xứ sở và những thành công về phương diện quân sự, những Sĩ quan tốt nghiệp từ trường West Point đă thành danh không những là kỹ sư và chiến sĩ mà c̣n là các dân biểu, những nhà ngoại giao và kỹ thuật gia. Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam hiện nay cũng đang t́m cách đào tạo những nhân vật tương tự để gánh vác vai tṛ lănh đạo khẩn thiết, đem hết khả năng và tâm huyết phục vụ quê hương của họ. Chúng ta có thể tự hào là " the Long Gray Line" ( tượng trưng cho Sinh viên Sĩ quan trường Vơ Bị West Point) đă giúp sức dẫn đầu lộ tŕnh này. Đà
Lạt Việt Nam, năm 1972 |