Những
Kỷ Niệm Về
Sở
Pḥng Vệ Duyên Hải
Hồ
Văn Kỳ Thoại
Năm
đầu với Sở Pḥng Vệ Duyên Hải
Vào khoảng tháng 6 năm 1966, sau buổi lễ bàn
giao chức vụ Chỉ Huy Trưởng Vùng 2 Duyên Hải
tôi đi từ Nha Trang đến Đà Nẳng bằng phi
cơ C-130 màu đen không số và không có phù hiệu của
quốc gia nào cả. Đó là loại phi
cơ dùng để thả dù biệt kích trên đất
địch dưới sự điều động của
cơ quan MACV-SOG. Khi đến phi trường Đà
Nẳng, tôi được Thiếu Tá Ngô Thế Linh mặc
quân phục của binh chủng nhảy dù cùng ban tham mưu
tiếp đón. Buổi lễ bàn giao chức
vụ chỉ huy trưởng Sở Pḥng Vệ Duyên Hải
được tổ chức trang nghiêm nhưng kín đáo
v́ hoạt động đặc biệt của Sở nầy.
Chỉ cần
một hai tuần, tôi thấy ngay những khó khăn
căn bản về vấn đề lănh đạo, nhân sự
và liên hệ với các cố vấn Hoa Kỳ. Theo lời
các cố vấn Mỹ của NAD, quân kỷ rất lỏng
lẻo, nhiều trường hợp đào ngũ xảy
ra. Quân cụ mất mát không chứng minh được
và quân nhân có một thái độ như lính đánh thuê. Cho đến giữa năm 1966, Sở Pḥng Vệ
Duyên Hải được chỉ huy bởi một sĩ
quan bộ binh. Nhiều khó khăn bị vấp
phải v́ hành quân xâm nhập bằng đường biển
mà được điều động bởi sĩ quan
bộ binh. V́ có sự mâu thuẫn nên vị chỉ huy
trưởng Sở không bao giờ đi theo
các chuyến công tác xâm nhập.
Riêng trong cuối
năm 1965 và sáu tháng đầu năm 1966, trước khi
tôi nhậm chức chỉ huy trưởng, bốn khinh tốc
đỉnh loại PTF bị ch́m v́ nhiều lư do khác nhau: một
chiếc bị mắc cạn vào cuối năm 1965, một
chiếc v́ phi cơ địch bắn ch́m ngày 7 tháng 3, 1966,
hai chiếc phải bị phá hủy tại mục tiêu v́ bị
mắc cạn trong lúc vớt toán ngày 22 tháng 5, 1966. V́ vị chỉ huy trưởng không phải là Hải
Quân nên không có một cuộc điều tra cặn kẽ
và biện pháp kỷ luật nào cả. Hơn nửa
Lực Lượng Hải Tuần mà thành phần là hoàn
toàn Hải Quân đôi khi không thi hành tuyệt đối mọi
chỉ thị của Sở Pḥng Vệ Duyên Hải v́ họ
nghỉ rằng Sở không hiểu ǵ về Hải Quân mặc
dù trong bộ tham mưu của Sở vẫn có sĩ quan Hải
Quân. Chiếc khinh tốc đỉnh thứ năm ch́m vào
ngày 17 tháng 6, 1966 v́ bắn lầm nhau gây tử thương
cho hai sĩ quan và một số nhân viên trên chiến đỉnh
chỉ huy và đây là giọt nước cuối cùng làm
tràn ly nước, Bộ Tổng Tham Mưu quyết định
thay thế đương kiêm chỉ huy trưởng Sở
Pḥng Vệ Duyên Hải bằng một sĩ quan Hải
Quân.
Tôi bắt đầu chỉnh đốn lại mọi
sự và sau đó vài tháng, tinh thần các binh sĩ các cấp
lên cao và số công tác có kết quả cũng được
gia tăng. Cho đến cuối năm 1969, chỉ có
thêm một PTF ch́m v́ tai nạn.
Lấy
bằng Nhảy Dù
Ngoài Lực Lượng Hải Tuần gồm
nhân viên chiến đỉnh và một số nhân viên toán
Nimbus, hầu hết nhân viên Biệt Hải và Bộ Chỉ
Huy đều có bằng nhảy dù. Sau
khi tôi nhận chức vụ mới, các cố vấn Hoa Kỳ,
phần nhiều thuộc lực lượng người
nhái, đốc thúc tôi đi học nhảy dù. Dạo
ấy, trong Hải Quân, ngoại trừ Liên Đội Người
Nhái, không sĩ quan Hải Quân nào có bằng nhảy dù. Sau khi tôi tốt nghiệp xong th́ trong Sài G̣n một
số sĩ quan Hải Quân đến Sư Đoàn Dù ghi
tên đi học lấy bằng nhảy dù. Bài học
là đôi khi chúng ta ngại ngùng, nghỉ rằng tại sao
vào Hải Quân lại phải học nhảy dù nhưng
chính ta phải đặt câu hỏi: “Tại sao không?”

Trung Tá Thoại đang chuẩn
bị lên phi cơ nhảy dù.

Trung
Tá Hồ Văn Kỳ Thoại và Đại Tá Nguyển Vỉnh
Nghi (1967),
sau này là Trung Tướng, Tư Lệnh Quân Đoàn IV-Quân
Khu 4.
Khóa học
nầy được tổ chức tại trại Mỹ
Khê, do các huấn luyện viên Hoa Kỳ và Việt Nam thuộc
Sở đảm trách. Ngoài một số quân nhân của Sở
thụ huấn, c̣n có thêm Đại Tá Nguyễn Vĩnh
Nghi, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn I, Trung Tá Phan Ḥa Hiệp,
Chỉ Huy Trưởng Đặc Khu Đà Nẳng, Hải
Quân Trung Tá Nguyễn Văn Thông, Tư Lệnh Vùng 1 Duyên Hải.
Khóa nhảy dù nầy rất tốt cho tôi v́
ngoài việc luyện thân thể tôi nó c̣n làm tôi biết
được khả năng của các chiến hữu của
tôi. Các huấn luyện viên Việt Mỹ rất là
chuyên nghiệp và rất lo cho sự
an
toàn của các khóa sinh.
Ngoài ra việc tôi biết
nhảy dù làm cho binh sĩ dưới quyền tôi đặc
biệt là các quân nhân thuộc Lực Lượng Biệt Hải
cảm thấy họ thấy tôi gần họ hơn.

Trung Tá Hồ Văn Kỳ Thoại
(CHT/SPVDH) hướng dẫn Đại Tướng Cao
Văn Viên thăm viếng Sở Pḥng Vệ Duyên Hải
(phía sau là Chuẩn
Tướng Ngô Quang Trưởng và Trung Tướng
Hoàng Xuân Lăm, bên phải là Đại Úy Trương Duy Tài
CHT/LLBH). Phía sau là Trung tá Norman Olson, cố vấn trưởng
NAD.
Trung
Tướng Hoàng Xuân Lảm thăm Sở Pḥng Vệ Duyên Hải
Đi
công tác với anh em
Một việc
nửa là khi nhận chức chỉ huy trưởng Sở
Pḥng Vệ Duyên Hải, tôi được biết là vị
tiền nhiệm của tôi hầu như không đi theo chiến đỉnh vượt tuyến
17. Tôi nhớ lại câu hỏi:” Tại sao không?” Tôi hỏi
bộ tham mưu của tôi lư do, th́ có người nói là cố
vấn Mỹ khuyên không nên đi. Tôi hỏi lại
các cố vấn kể cả Đại Tá John Singlaub, người
giám đốc Hành Quân OPLAN 34A th́ được biết
không có lịnh nào không cho chỉ huy trưởng đích
thân tham dự công tác. Từ đó, thỉnh
thoảng tôi thường tham dự các chuyến công tác
để nhân viên chiến đỉnh và các toán được
tin tưởng và phấn khởi hơn. Sự tham dự
của tôi trong những công tác bên kia vĩ tuyến cùng nhân
viên Sở Pḥng Vệ Duyên Hải đem đến cho tôi
nhiều kỷ niệm khó quên ngoài việc thấy tận
mắt sự can trường và t́nh đồng đội
giữa các toán Biệt Hải và đoàn viên của các chiến
đỉnh.
Đại
Tá, Giám Đốc Nha Kỹ Thuật
Nói đến
Sở Pḥng Vệ Duyên Hải mà không nói đến Đại
Tá Trần Văn Hổ là một sự thiếu sót, Đại
Tá Hổ có một người em cùng tên họ giữ chức
Tư Lệnh Không Quân thời Tổng Thống Ngô Đ́nh
Diệm. Đa số thời gian tôi phục vụ tại
Sở Pḥng Vệ Duyên Hải là dưới sự chỉ
huy của Đại Tá Hổ. Bộ Tổng Tham Mưu chỉ
định Đại Tá Hổ làm giám đốc Nha Kỹ
Thuật rất đúng. Tánh t́nh trầm lặng, ăn nói chẩm rải và giọng nói rất
nhỏ. Mỗi tháng khi tôi về Sài G̣n để gặp ông
để báo cáo công việc Sở lúc nào ông cũng nhớ
một chuyện để căn dặn tôi. Đối
với Đại Tá Hổ việc bảo mật là tối
cần thiết cho mọi hoạt động của Nha Kỹ
Thuật.
Từ trái sang phải: Đại
Tá Trần Văn Hổ, Đại Tá Trần Văn Phấn
(Tư Lệnh Hải Quân), Đại Tá John Singlaub.
Đặc tính thứ nhứt của Đại
Tá Hổ là có tánh rất đa nghi và đặc tính thứ
hai là bao giờ cũng nh́n đến một khía cạnh
trái ngược của những ư nghĩ thông thường
của người khác.
Lúc ban đầu tôi rất khó chịu về cách lư luận
của Đại Tá Hổ v́ lúc nào ông cũng làm cho ḿnh nghỉ
rằng có lẽ chính ḿnh là người bất b́nh thường.
Tôi nêu ra đây hai vụ xảy ra làm tôi vừa
phục vừa buồn cười.
Có một lần tôi mời Tổng Thống Thiệu
thăm trại Phượng Hoàng thuộc Sở Pḥng Vệ
Duyên Hải. Chúng tôi trưng bày trên một cái bàn các
vũ khí và dụng cụ của các chiến sĩ Biệt
Hải khi họ đi công tác phía Bắc vĩ
tuyến 17. Trung Tướng Đặng Văn Quang tháp tùng
Tổng Thống Thiệu thấy có một cái dao găm của
người nhái dùng, rất bén và rất đẹp và hỏi
tôi có thể cho ông được không. Đại Tá Hổ
đứng gần đó nghe câu hỏi của Trung Tướng
Quang, ông đi tới và hỏi Trung Tướng Quang muốn
xin dao găm nầy để làm ǵ. Thoạt
đầu Trung Tướng Quang và tôi tưởng là đại
tá hỏi là để hỏi v́ hai người rất thân
nhau từ khi học cùng khóa sĩ quan ở bộ binh.
Nhưng Đại Tá Hổ lập đi lập
lại ba bốn lần làm tôi phát ngượng cho Trung Tướng
Quang. Sau cùng Trung Tướng Quang trả lời một
cách thẳng thừng làm cho những người chung quanh, kể cả Tổng Thống Thiệu
cười x̣a làm Đại Tá Hổ đỏ mặt.
Trung Tướng Quang nói: “Tôi
xin anh cây dao nầy để tôi về Sài G̣n tôi gặp ai
tôi đâm người đó và nói với cảnh sát là dao nầy
do anh cho tôi!”
Câu chuyện
thứ hai là xảy ra khi tôi đề nghị Nha Kỹ Thuật
can thiệp với Hải Quân để xin Thiếu Tá Nguyễn
Viết Tân về đại diện cho tôi ở Nha Kỹ
Thuật.
Tổng
Thống Thiệu thăm trại Phượng Hoàng (từ
trái sang phải: Trung Tá Tín, Tỉnh Trưởng Quảng
Nam, cố vấn tỉnh Quảng Nam,
Tổng
Thống, Trung Tá Thoại và Thiếu Tá Nghiêm phụ trách trại.
Khi tôi tŕnh
Đại Tá Hổ th́ trước khi ông gởi văn thư
cho Bộ Tư Lệnh Hải Quân ông chỉ thị pḥng
nhân viên của Nha Kỹ Thuật xin Nha An Ninh Quân Đội
điều tra về cá nhân Thiếu Tá Tân. Một tháng sau,
trong dịp tôi về gặp lại Đại Tá Hổ th́
ông báo tin cho tôi là Nha An Ninh Quân Đội
không đồng ư việc Thiếu Tá Tân sang phục vụ
Nha Kỹ Thuật. Ông đưa tôi xem văn thư
của Nha An Ninh Quân Đội gởi Nha Kỹ Thuật với
kết luận “Không tán thành, v́ có thân nhân (cha mẹ ruột)
sống trong vùng Việt Cộng kiểm soát”. Sau khi tôi
đọc văn thư xong Đại
Tá Hổ hỏi tôi nghỉ sao. Tôi đáp ngay với Đại
Tá Hổ là tôi cám ơn ông đă cố gắng giúp tôi nhưng
kết quả điều tra an ninh là một yếu tố
quan trọng nhứt trong việc tuyển chọn quân nhân
phục vụ tại Nha Kỹ Thuật và Sở Pḥng Vệ
Duyên Hải và xin ông bỏ qua việc nầy. Ông để
tôi nói xong, ông nói: “Tôi hỏi anh là để cho có hỏi chứ
An Ninh Quân Đội là chỉ cho ư kiến c̣n quyền quyết
định và trách nhiệm là hoàn toàn ở tôi. Nếu nói thân nhân ở vùng Việt Cộng kiểm
soát th́ có mấy ông tướng có thân nhân làm lớn ngoài Bắc
th́ sao? Sao không giải ngũ mấy
ông đó đi. Anh nói với tôi rằng Thiếu Tá Tân là một
sĩ quan đứng đắn, có tư cách, làm việc giỏi
và chống Cộng là tôi tin rằng ông Tân sẽ là một
sĩ quan tốt cho Nha Kỹ Thuật.” Đại Tá Hổ
nói xong bèn chỉ thị cho trưởng pḥng Nhân Viên là
Đại Úy Nguyễn Văn Viện gởi văn thư cho Hải
Quân xin biệt phái Thiếu Tá Tân sang Nha Kỹ Thuật thuộc
Bộ Tổng Tham Mưu. Vào đầu
năm 1970, tôi được thuyên chuyển trở về
Hải Quân để giữ chức vụ Tư Lệnh Hải
Quân Vùng 1 Duyên Hải thay thế Đại Tá Nguyễn
Văn Thông. Trung Tá Nguyễn Viết Tân được
chỉ định giữ chức Chỉ Huy Trưởng
Sở Pḥng Vệ Duyên Hải thay thế tôi.
Chuyến
công tác của Đại Úy Bách
Một kỷ
niệm mà tôi không bao giờ quên được là chuyến
công tác do Hải Quân Đại Úy Trần Thùy Bách chỉ huy
vào tháng 6-1968 ngoài khơi Thanh Hóa. Tầu anh
Bách khi cặp soát ghe bị địch từ ghe bắn
lên, đồng thời liệng những bánh chất nổ
lên sân trước của tầu, gần khẩu 81 ly.
Sức ép của chất nổ làm anh Bách bị ḷi một
con mắt, nhưng địch không xông được lên tầu
và bị Biệt Hải cũng như nhân viên chiến
đỉnh bắn chết hết. Biệt Hải
Phạm Việt ở gần cây 20 ly bên hông tầu bị
trúng đạn địch tử thương. Hạm phó của chiến đỉnh thay thế
Đại Úy Bách chỉ huy chiến đỉnh và đồng
thời báo cáo t́nh h́nh về trung ương. Phân đội được lệnh đưa
Đại Úy Bách ra một chiến hạm của Đệ
Thất Hạm Đội để tản thương về
Đà Nẳng.
Tôi nhận
được đầy đủ báo cáo và như mọi
trường hợp tổn thất khác, nhiệm vụ khó
khăn nhứt của những ai đă từng làm đơn
vị trưởng trong quân ngũ là việc
mang tin không vui cho thân nhân của họ. Tôi cùng tài xế lên xe jeep sang thành phố Đà Nẳng, đến
nhà Đại Úy Bách, nhà mà tôi rất quen thuộc v́ hai vợ
chồng anh hay đăi bạn bè và nhà ông bà lại ở trên
đường chánh của thành phố. Khi xuống xe đi vào nhà, th́ từ trong căn phố,
chị Bách đă đi ra đón tôi giữa đường.
Tôi chưa kịp nói ǵ th́ chị Bách nói trước: “Anh Bách bị nạn rồi phải
không chỉ huy trưởng?” Tôi liền nói: “Ủa, sao chị biết?”ï Tôi tự nghỉ làm sao có ai biết trước
tôi được mà thông báo cho chị ấy. Chị Bách
nói tiếp: “ Sáng nay tôi ngồi một ḿnh lo âu mỗi
khi anh Bách đi công tác, tôi lấy bộ bài ra bói chơi tự
nhiên bài hiện lên cho thấy điều không may sẽ xảy
đến cho anh Bách.” Tôi liền nói: “Chị yên tâm, anh không bị lâm nguy đến tính mạng,
nhưng anh bị thương nơi mặt. Chị
sửa soạn để tôi cho xe đến đón chị
khi trực thăng đưa anh Bách về bệnh viện
Mỹ ở Non Nước!”
Trường
hợp trên tuy đáng buồn nhưng vẩn không buồn bằng
lúc nào tôi không có tham dự trong chuyến công tác và khi phân
đội về bến nhân viên đưa khiên lên xe cứu thương một bao plastic màu xám
tro. Một quy luật không thành văn nhưng các chiến
sĩ thuộc Lực Lượng Hải Tuần và Biệt
Hải lúc nào cũng theo, đó là bằng
mọi giá họ phải đem xác đồng đội bị
tử thương theo về với họ.
Chuyến
công tác với Đại Úy Trí
Tôi c̣n nhớ
vào một đêm không trăng vào mùa Hè năm 1967, trong một
chuyến công tác ngoài khơi tỉnh Nghệ An, trên chiếc
PTF mà Đại Úy Nguyễn Mạnh Trí làm hạm trưởng
kiêm phân dội trưởng, đoàn tàu vừa vượt
khỏi vĩ tuyến 17, gió thổi lành lạnh v́ tốc
độ nhanh của tàu, Đại Úy Trí, đứng phía
trước đài chỉ huy, tôi đứng phía sau. Chúng tôi nh́n thẳng về phía trước và chúng
tôi, kể cả nhân viên giám lộ, không ai nói một lời
ǵ. Chợt tôi nh́n vào Đại Úy Trí.
Với vóc người gọn gàng, khuôn mặt hết sức
thư sinh, Đại Úy Trí giống như một sinh viên đại
học chớ không ai có thể nghỉ đó là một
sĩ quan chỉ huy một phân đội gồm 3 chiếc
khinh tốc đỉnh đang thi hành công tác trong ḷng địch.
Tôi nh́n, từ phía sau, Đại Úy Trí đang chăm chú nh́n
biển phía trước; tự nhiên tôi cảm thấy thương
tiếc cho thế hệ của anh vô cùng và tôi tự hỏi
tại sao giờ nầy một thanh niên như anh đáng
lư ra phải đang cấp sách đến một trường
đại học vui vẻ đùa cợt với bạn bè
mà giờ phút nầy đang đứng đây chỉ huy
thuộc cấp đi vào nơi tận cùng nguy hiểm nếu
không nói là cơi chết. H́nh ảnh nầy măi măi
nằm trong đầu tôi mỗi khi nghỉ đến các
chiến sĩ SPVDH. Tôi nh́n xuống phía dưới sàn
tàu, một vài anh em Hải Tuần và Biệt Hải
cũng b́nh thản đang đứng nh́n về phương
Bắc, nơi mà trong vài tiếng nửa sự can trường
của họ sẽ được thử thách.
Chuyến
công tác Ḥn Cọp
Kỷ niệm
thứ hai là vào khoảng 1968, trong một công tác tại Ḥn
Cọp, nhiệm vụ của toán Biệt Hải là thám sát
địa h́nh và các vị trí thiết yếu của
đài radar Ḥn Cọp. Toán Biệt
Hải được chỉ thị là tránh nổ súng trừ
khi bị phát hiện và phải tự vệ. Với các
công tác dưới vĩ tuyến 18, thường
thường chỉ có hai chiến đỉnh PTF tham dự.
Tôi đi trên PTF của phân đội trưởng
mà tôi c̣n nhớ vị hạm phó là Trung Úy Nguyễn Đa
Phúc. Vượt qua vĩ tuyến
17, các chiến đỉnh bao giờ cũng tắt đèn.
Trên đảo th́ mọi sự đều tối
thui. Một màn yên lặng bao trùm các chiến
đỉnh và trên đảo.
Bất th́nh ĺnh, toán Biệt Hải báo cáo bị lộ
khi vào gần đến trung tâm đảo phải mở
đường máu để thoát ra bờ biển.
Toán Biệt Hải đă trễ gần hai tiếng đồng
hồ và đă đến giờ ấn định bởi
lệnh hành quân cho chiến đỉnh rời vùng v́ trời
sắp sáng, Trung Úy Phúc, tuy không phải nhiệm vụ của
anh nhưng anh xin đề nghị và t́nh nguyện xuống
một xuồng cao su với một vài thủy thủ
đem theo đèn cầm tay để t́m và hướng dẫn
các xuồng Biệt Hải ra tàu. Tôi và hạm
trưởng của anh đồng ư và rất thán phục
hành động can trường của Trung Úy Phúc. Tôi
đưa cho anh mượn khẩu súng lục nhỏ
để sử dụng khi cần. Cuối cùng anh đă
t́m thấy và huớng dẫn các xuồng Biệt Hải về
tàu an toàn. Nhân viên Biệt Hải
rất cảm kích về t́nh đồng đội của
Trung Úy Phúc.
Trung Tá Hồ Văn Kỳ Thoại
đang gắn huy chương cho một chiến sỉ Biệt
Hải.
Kết
luận
Để
kết luận, hoạt động của Sở Pḥng Vệ
Duyên Hải quá lệ thuộc vào Hoa Kỳ, một chuyến
công tác ra Bắc dù nhỏ đến mấy cũng cần
có sự đồng ư của ṭa Bạch Ốc v́ sợ sự
bành trướng quy mô có thể gây sự nhập cuộc của
Trung Cộng và khối Sô Viết. Chúng tôi hoàn
toàn căm phẫn đối với một vài tác giả
Hoa Kỳ dựa trên nhận xét nông cạn nói rằng chiến
sĩ thuộc Sở Pḥng Vệ Duyên Hải thi hành công tác
v́ tiền và không có tinh thần chiến đấu. Là
người trong cuộc, các chiến sĩ Hải Tuần
và Biệt Hải vẩn nhớ rơ là mỗi chuyến công
tác điều được thiết kế tỉ mỉ
với từng chi tiết từ giờ rời bến
đến phút Biệt Hải xuống thuyền cao su và
phút bước chân lên băi, có muốn nhút nhát cũng không sao
thối lùi được. Sự thật là nhân viên của
Sở đi công tác phía Bắc vĩ tuyến
17 được lănh một số tiền đặc biệt
ngoài tiền lương. Số tiền nầy được
cấp đồng đều từ hạm trưởng
đến thủy thủ đoàn Hải Tuần hay nhân
viên Biệt Hải, không ai hơn ai, v́ sự nguy hiểm
đặc biệt của loại công tác nầy. Một
điều nửa chúng ta nên nhớ là tất cả nhân
viên Hải Tuần và Biệt Hải là nhân viên t́nh nguyện
và họ phải di chuyển gia đ́nh họ từ các tỉnh
khác về định cư tại Đà Nẳng với tất
cả sự tốn kém cũng như cách biệt giá sinh hoạt.
Nói tóm lại
hoạt động của Sở rất phức tạp v́
nó có tính cách chiến lược hơn là chiến thuật,
với một hệ thống chỉ huy quá nặng nề
và không rơ ràng, nhưng không phải v́ thế mà mỗi chiến
sĩ của Sở Pḥng Vệ Duyên Hải khi bước
chân lên chiến đỉnh rời bến Đà Nẳng mà
không cảm thấy trong tâm là họ lên đường làm
bổn phận người trai của thế hệ một
cách hănh diện và tự hào họ thực hiện một
công tác nguy hiểm hơn các chiến hữu thuộc các
quân binh chủng khác. Những hạm trưởng khinh tốc
đỉnh can trường như Phạm Văn Tiêu, Trần
Đổ Cẩm, Lê Bá Thông, Nguyễn Hữu Phú, Nguyễn
Mạnh Trí v..v...
và c̣n nhiều sĩ quan khác đă gây được sự
khâm phục của đoàn viên của họ mà c̣n được
sự kính nể của các cố vấn Hoa Kỳ.
Đại Tá Skip Sadler, chỉ
huy trưởng SOG trao US Navy Commendation Medal cho Trung Tá Hồ
Văn Kỳ Thoại.
Sau khi Hoa Kỳ ngưng oanh tạc Bắc Việt,
hoạt động của Sở Pḥng Vệ Duyên Hải
được thay đổi về cách thức cũng như
địa bàn hoạt động. Vừa
lúc đó, Đại Tá Trần Văn Hổ, giám đốc
Nha Kỹ Thuật được Trung Tá Đoàn Văn Nu
thay thế. Trung Tá Nu lúc bấy giờ
kém thâm niên hơn tôi. Trong lúc đó Hải Quân Đại
Tá Nguyễn Văn Thông, đương kiêm Tư Lệnh
Vùng 1 Duyên Hải, được lệnh thuyên chuyển vào
miền Nam, thay thế Đại Tá Đinh Mạnh Hùng, giữ
chức Tư Lịnh Lực Lượng Thủy Bộ.
V́ Sở Pḥng Vệ Duyên Hải đặt dưới sự
chỉ huy của Nha Kỹ Thuật thuộc Bộ Tổng
Tham Mưu nên Bộ Tư Lệnh Hải Quân hỏi ư kiến
tôi về việc tôi thay thế Đại Tá Thông. Tôi thấy việc rời Sở Pḥng Vệ Duyên Hải
rất đúng lúc. Tôi đồng ư và đề nghị
người thay thế tôi là Hải Quân Trung Tá Nguyễn Viết
Tân, một sĩ quan ưu tú, một người bạn tốt
của tôi và là đại diện của tôi tại Nha Kỹ
Thuật nên biết rơ hoạt động của Sở.
Tôi nhận chức Tư Lệnh Vùng 1 Duyên Hải trong một
buổi lễ dưới sự chủ tọa của
Đô Đốc Trần Văn Chơn và sự hiện diện
của Trung Tướng Hoàng Xuân Lăm, Tư Lệnh Quân
Đoàn I và Quân Khu 1 và Đô Đốc Zumwalt, Tư Lệnh
Lực Lượng Hải Quân Hoa Kỳ tại Việt
Nam.