Phước Quế Publications
PHẦN MỘT
Du khách đến viếng thăm một
ngôi chùa Phật giáo bên Nhật thường thấy hai pho
tượng khổng lồ với khuôn mặt dữ tợn
đứng hai bên cổng vào. Đó là hai vị thần hộ
pháp Nghịch Lư và Hoang Mang đứng canh gác Sự Thật.
Bạn thử nghĩ xem! Thật là kỳ
lạ khi Sự Thật cần có thần canh giữ. Dù có vậy th́ những vị thần
này phải có những khuôn mặt hiền từ th́ mới
hợp lư chứ? Tại sao họ
lại có bộ dạng hung tợn? Và tại sao không có tượng Sự
Thật mà lại có tượng canh gác Sự Thật?
Dần dà th́ tôi bắt đầu hiểu
lư do. Không thể nào dùng một h́nh ảnh, một câu nói hay
một danh từ mà biểu tượng được Sự
Thật. Không thể dùng một
học thuyết, một biểu đồ hay một cuốn
sách mà định nghĩa được Sự Thật.
Không khái niệm nào về Sự Thật có thể
đưa người ta đến Sự Thật. Cho nên
có muốn nắm bắt lấy Sự Thật th́ kết
quả chỉ là nghịch lư và hoang mang mà thôi.
Ta có thể giải thích như sau. Dù có
trực tiếp chứng nghiệm được Sự Thật,
con người vẫn không biết nhận ra nó. Đồng
thời lại c̣n t́m cách giải thích Sự Thật bằng
những mô h́nh, câu chuyện, tư tưởng hay tin tưởng. V́ những giải thích đó không
phải là Thực Tại nên chúng chẳng bao giờ
tương xứng với kinh nghiệm thật. Từ đó mà có mâu thuẫn và xảy
ra hoang mang.
Vấn đề là con người nhất
định muốn đóng cái kinh nghiệm trực tiếp
kia trong một cái khung khái niệm để nó không thay h́nh
đổi dạng nữa. “Sự Thật là như thế
này.”
Thông thường muốn phát biểu về
một vấn đề ǵ th́ người ta phải tŕnh bầy
sự thể một cách vững chăi, không một chút mâu thuẫn,
để người nghe tin đó là thật. “Sự Thật như thế này.
Hăy tin đi.” Tuy nhiên những phát biểu như thế về
bất cứ đề tài nào cũng rất tầm thường,
từ chính trị, luân lư, kinh tế, tâm lư, tôn giáo, khoa học,
toán học, triết học, cho đến sửa xe. Chúng
không phải là Sự Thật mà chỉ là những cố gắng
của con người để lưu lại cái ǵ tất
nhiên sẽ mất đi.
Khi người ta muốn dùng lời
để miêu tả cái ǵ đang xảy ra th́ những lời
đó đă sai lạc rồi. Sự Thật không thể
nào diễn tả được.
Ấy thế nhưng người ta vẫn cứ t́m
cách nắm chặt Sự Thật trong bàn tay, cứ muốn
dùng một câu nói hay một vài hàng chữ viết trao cho
người khác, làm như Sự Thật là một món đồ
có thể cho vào túi rồi thỉnh thoảng lấy ra ngắm
nghía hay khoe khoang với người chung quanh: “Đây này, nó
đây này!” Tuy nhiên, người ta quên mất rằng có nhiều
người khác cũng sẽ trao cho ḿnh những mảnh
giấy trên đó họ cũng đă ghi chép nhiều sự
thật khác.
Làm sao có thể như thế được? Chỉ khi nào biết vượt
lên trên sự mâu thuẫn th́ mới thấy được
bóng dáng của Sự Thật và Thực Tại. Phải chi đừng muốn nắm
lấy Sự Thật th́ sẽ không có rối loạn
như vậy. Hăy chú tâm vào các
sự việc chung quanh và nhận định được
rằng chính v́ tin tưởng, suy nghĩ rồi đặt
ra những câu chuyện mà con người không thể nào
hoàn toàn hiểu được chuyện ǵ đang xảy
ra tại đây.
Phải mở mắt lâu một chút
để nhận thấy rằng ḿnh đang sống một
kinh nghiệm mới có thể làm thay đổi hẳn lối
nh́n thường ngày của ḿnh.
Chỉ khi nào thoát được ra khỏi
sự mâu thuẫn và rối loạn, th́ mới có thể cởi
mở được. Không thể
cứ ôm giữ lấy một quan niệm mà t́m được
Sự Thật. Ngược lại,
phải hết sức chăm chú nh́n cuộc đời
trước mặt với cặp mắt vô tư không
vướng thành kiến hay mong chờ. Đó là mục đích của cuốn
sách này.
2
Phật tử nào cũng thừa
nhận năm giới sau đây:
1. Không giết hại.
2. Không trộm cắp.
3. Không tà dâm.
4. Không nói dối.
5. Không say sưa rượu
chè.
Giới là những qui định tự
nhiên trong đời sống thông thường và điều
kiện để người theo đạo có thể giác
ngộ. C̣n nhiều giới
khác, nhưng đại để người học Phật
suy nghĩ và cư xử theo luân lư v́ đă có trí huệ
thông suốt chứ không phải v́ bị đoàn thể bó
buộc.
Chuyện kể lại có một thiền
sinh rất câu nệ trong việc giữ giới. Một bữa kia khi đang dạo
bước trong đêm tối, anh ta nghe thấy tiếng
động của một vật ǵ vừa bị chân ḿnh
đè nát. Anh ta liền tưởng
tượng rằng ḿnh vừa đạp lên một con ếch
có trứng và ḷng cảm thấy buồn phiền sợ hăi
v́ đă phạm giới không được giết sinh vật. Đêm đó nằm ngủ, anh mê
thấy cả trăm con ếch đến đ̣i ḿnh thế
mạng.
Sáng dậy, anh trở lại nơi câu
chuyện đêm trước xảy ra th́ thấy ḿnh đă
đạp phải một trái cà.
Th́nh ĺnh chuyện được sáng tỏ, và anh không
c̣n hoang mang nữa. Chuyện kể
rằng từ đó thiền sinh kia biết thiền và biết
thật sự giữ giới.
Như nhiều Phật tử thành tâm,
thiền sinh kể trên đă nhầm lẫn coi giới
như một cẩm nang tu luyện hay những quy tắc
xử thế ở đời.
V́ tự coi ḿnh đă hiểu vững vàng và giữ
được giới, anh ta đă gây cho ḿnh nhiều phiền
phức. Dù trên nguyên tắc anh
hiểu được giới, nhưng trong thực hành sự
hiểu biết đó đă không đem lại cho anh sự
b́nh tĩnh. Trái lại, anh
đă tự giầy ṿ ḿnh một cách vô bổ.
Vấn đề là anh tưởng ḿnh
hiểu nhưng thật sự lại chẳng hiểu
ǵ. Sở dĩ anh phiền năo
là v́ chỉ biết không nên giết sinh vật mà quên hẳn
sự kiện là thật ra anh không hề biết ḿnh đă
đạp lên vật ǵ. Và thay
v́ chấp nhận là ḿnh không rơ đă đạp lên cái ǵ,
anh tự giải thích sự kiện rồi tự dằn
vặt ḿnh.
Câu chuyện nhắc nhở rằng cứ
giữ giới trong đầu th́ chẳng hiểu ǵ cả
v́ không thể nào nắm giữ chúng hay gói kỹ chúng trong
những khái niệm được.
Muốn giữ giới của Phật
th́ chỉ cần có mặt ở đây trong lúc sự việc
đang xảy ra mà không lạc trong những tư tưởng
hay ước đoán. Phải
nh́n cho rơ chuyện ǵ xảy ra trong lúc này và cả trong tâm
trí của ḿnh nữa.
Nếu không biết chuyện ǵ đang
xảy ra, chẳng hạn như đă đạp phải
vật ǵ trong đêm tối th́ cứ thừa nhận là
không biết. Và đây là ư nghĩa
của câu chuyện – là phải biết lúc nào ḿnh không biết.
Thông thường, con người tưởng ḿnh biết
nhưng thật sự chỉ là do trí tưởng tượng. Điều họ tưởng
tượng lúc ấy có vẻ thật lắm. Rồi cứ thế mà bị
vướng mắc trong ảo mộng.
Nếu bạn thật sự có mặt
tại đây th́ sẽ nhận thấy rằng không có ǵ
để t́m hay để lẩn trốn. Dù cho có vô t́nh đạp lên một
con ếch th́ vẫn có thể giữ b́nh tĩnh. Chỉ cần biết chuyện
ǵ đang xẩy ra. Phải biết
tâm của ḿnh lúc ấy ra sao.
Câu chuyện này cho thấy chúng ta hay tạo
nên những thế giới hoang đường rồi tự
giam ḿnh trong đó. Nh́n cho kỹ
th́ sẽ thấy thế giới thật sự không phải
như ḿnh nghĩ và sẽ không bao giờ như vậy.
Con người công phu tạo dựng
để làm chủ những thế giới tưởng
tượng. Rồi đặt ra biết bao điều lệ,
mục tiêu, tiêu chuẩn, những điều nên làm, những
điều ngăn cấm, rồi t́m cách điều khiển
tất cả. Tốn biết
bao công sức và thời giờ vào chuyện này nhưng c̣n
tỉnh giác th́ rất ít ai quan tâm đến.
Giữ giới Phật là nhận xét thấy
thói quen của con người là như vậy. Hăy từ bỏ thói quen đó mà
quan sát cái ǵ đang xảy ra trong từng khoảng khắc
tại ngay nơi này và trong tâm trí bạn. Quan sát xem cái tâm nghiêng về phía
nào và tránh xa phía nào.
Giữ giới là trở về với
lúc này để chứng nghiệm thực tại ngay bây giờ
trước khi lại đưa ra lời giải
thích. Trở về với hiện
tại trong từng giây từng phút để xem chuyện
ǵ đang xảy ra. Bằng
không th́ lại sẽ chỉ sống trong một thế giới
tưởng tượng. Ở
đó con người lạc lơng và chỉ lo bảo vệ
và chiều chuộng bản ngă của ḿnh.
Khi thiền sinh trong câu chuyện nh́n thấy
trái cà dẹp nát th́ anh ta tỉnh mộng, không phải chỉ
bừng tỉnh rằng ḿnh đă đạp lên một trái
cà chứ không phải một con ếch mà c̣n bừng tỉnh
rằng ḿnh đă tự thêu dệt những nỗi lo sợ
trong đầu. Trong giây phút
như thế đó ai cũng có thể tỉnh giác. Ngoại trừ những tư
tưởng trong đầu, chẳng có ǵ ngăn cản
con người tỉnh mộng.
Hẳn là bạn đă từng
thấy h́nh vẽ ba chú khỉ che mắt, che tai, che miệng,
để không nh́n thấy tội ác, không nghe điều ác
và không nói lời ác. Con người
thường coi cái xấu ác như một vật ǵ tách
riêng ra hẳn bên ngoài. Theo thói
quen đó, người ta cũng thường coi một số
dân tộc, văn hóa, thể chế chính trị hay tôn giáo
là xấu. Thật vậy, bất
cứ vật ǵ cũng có thể được coi là xấu. Tuy nhiên, v́ tin rằng cái xấu nằm
ở hẳn bên ngoài nên người ta chỉ bận lo
ngăn cản nó đừng đến gần.
Con người tự tách
ḿnh ra khỏi kinh nghiệm, tự coi ḿnh là kẻ chứng
nghiệm cái ǵ ở bên ngoài. Nếu
“cái ở bên ngoài đó” làm vừa ḷng th́ bảo là nó “tốt.” Ngược lại, nếu xét thấy
nó có vẻ nguy hiểm th́ cho là nó “xấu.” V́ có cảm giác xa cách, chia chẻ
nên mới có khái niệm xấu tốt. Nếu con người biết
nh́n thế giới “là như thế” th́ làm ǵ có tư tưởng
xấu tốt.
Hăy xem xét cái ṿng luẩn quẩn
con người đă tự giam ḿnh ở trong. Mới đầu th́ tưởng
tượng ḿnh xa cách thế giới chung quanh rồi v́ thế
mà phản ứng mănh liệt.
Phản ứng rồi th́ khởi sự sợ cái này,
muốn cái khác, tưởng tượng những sự việc
gọi là “tốt” hay “xấu.”
Tuy nhiên, tất cả những
thứ trên đều do tưởng tượng mà ra nên
đâu có thật. Chúng chỉ
là những con ma tạo ra để đối chọi lại
những con ma khác.
Vấn đề này lại
c̣n một khía cạnh sâu xa hơn.
V́ cứ cố gắng đẩy cái xấu ác ra xa,
con người tạo nên biết bao rắc rối cho ḿnh
và tha nhân. Rồi đến
lượt chính các rắc rối này cũng bị gọi
là tội ác và đôi khi có người c̣n bị gọi là
ma quỷ. Và ṿng luẩn quẩn
cứ thế mà xoay vần.
Con người thà chấp nhận chiến tranh lẫn
nhau, thà ch́m đắm trong những khái niệm khác nhau c̣n
hơn là nhận rằng ḿnh đang sống trong một thế
giới toàn mỹ.
Thật ra, con người
và vạn vật đang ở trong cái thế giới toàn mỹ
đó rồi, không thể tách rời ra được. Hiểu như thế th́ sẽ
nh́n cặp đối đăi xấu-tốt một cách khác
và sẽ không ch́m đắm trong phiền năo và rối loạn
nữa.
Không có nghĩa là sẽ
không c̣n khó khăn hay khổ đau, nhưng cái tâm thức tỉnh
biết nh́n thế giới như một thực thể
thuần nhất nên không c̣n thấy xấu ác hay tốt
đẹp như một cái ǵ xa lạ ở bên ngoài nữa.
Lúc ấy mới nhận thức ra rằng có vấn đề
chỉ v́ suy nghĩ sai lầm.
Đức Phật khuyên con
người nên sống trọn vẹn và nhân từ trong thế
giới bùn lầy này mà chẳng nên khuấy động
thêm. Chỉ cần hiểu rằng
chuyện ǵ xảy ra cũng nằm trong cái thực thể
nguyên vẹn và không thể gạt bỏ ra ngoài. Phải hiểu đó là căn bản
của mọi hành động.
Không có nghĩa là nên bỏ
qua bất cứ hành động bạo tàn, báo thù, phá hoại
nào. Nếu t́nh cảnh có hỗn
loạn th́ nên làm sáng tỏ. Nếu
có phiền năo th́ nên làm ǵ để xoa dịu. Nếu có bạo tàn th́ làm ǵ để
giảm thiểu nó đi.
Nhưng việc đầu tiên phải làm là quan sát tâm
của ḿnh.
Phải hiểu rơ rằng
con người không bao giờ xa cách nhau. Phải thành thật và vô tư mà
nhận thức rơ rằng tâm con người luôn luôn nghiêng
về hay tránh xa những tṛ tiêu khiển hoặc khái niệm
do ḿnh tưởng tượng ra.
Cho nên trong kinh Pháp Cú, Đức Phật khuyên nhủ
con người nên thanh lọc tâm.
Chỉ có trong tâm người ta mới có thể sống
tự do trong thế giới mà không thấy ḿnh hay tha nhân là
xấu ác.
V́ con người hay vội
vàng thể hiện mọi sự việc qua lăng kính xấu
tốt nên mới có sự chia cách và phiền năo. Có nhận ra như thế mới
biết hành động cho thích đáng.
Có lúc nào bắt gập ḿnh
đang có những tư tưởng chia rẽ hay phán
đoán th́ nên quay ngay về với tâm. Chỉ cần một chút chú ư, suy
tư và kiên nhẫn là đủ.
Nên nh́n sự hoang mang là
hoang mang, thừa nhận đau khổ là đau khổ, cảm
nhận buồn phiền và sự chia rẽ. Hăy chứng nghiệm những cảm
giác như giận dữ, sợ hăi, sửng sốt
nhưng không nên nghĩ chúng xấu và cần phải bị
loại trừ. Trái lại,
nên hấp thụ và chấp nhận chúng như là một phần
của cái nguyên vẹn kia. Biết
nh́n như thế là thanh lọc tâm.
Nhiều người đặt
tôn giáo và khoa học trong những hộp kín riêng biệt. Nhưng phần đông không biết
rằng qua nhiều thế kỷ trước khi bị
chia rẽ, tôn giáo và khoa học đă có rất nhiều
điểm tương đồng. Thật vậy, trước kia
tôn giáo và khoa học là một.
Cũng không có ǵ đáng ngạc nhiên bởi v́ cả
hai cùng một nguồn gốc mà ra: v́ con người muốn
biết Sự Thật.
Tiếng tôn giáo (religion) từ
religio mà ra và có nghĩa là “gắn liền với Sự
Thật.” Cho nên căn bản
của tôn giáo là nh́n thấy hay chứng nghiệm Sự Thật,
chứ không phải ôm giữ một mớ tin tưởng. Có tôn giáo là v́ con người không
muốn bị lừa dối và mong mỏi trở về với
Sự Thật. Cũng có khoa học
là v́ con người mong mỏi được biết Sự
Thật. Khoa học
(science) từ tiếng Latinh scire, có nghĩa là “biết”. Khoa học là để biết,
không phải để tin.
Điểm
sai lầm là chỗ dành cho ḷng tin.
Đúng vậy, người ta thường gán cho tôn
giáo đặc điểm của khoa học và ngược
lại. Nói đến tôn giáo
th́ người ta thường liên tưởng đến
tin tưởng và nói đến khoa học th́ lại liên
tưởng đến kiến thức. Trên thực tế, tôn giáo chú trọng
đến kiến thức, đến sự hiểu biết
trong khi khoa học đáng lẽ chú trọng đến kiến
thức và độc lập khỏi ḷng tin th́ lại tùy
thuộc vào ḷng tin.
Tờ
nhật báo New York Times gần đây có đăng một
bài viết tựa đề “Đấu gươm về
Thượng Đế và Vật Lư”. Một cuộc tranh luận xảy
ra giữa ông Steven Weinberg, một người được
giải thưởng Nobel về vật lư, và ông John
Polkinghorne, một nhà vật lư được phong tước
hầu và cũng là một tu sĩ thuộc Anh giáo. Cuộc tranh luận được
coi như một trận đấu giữa một người
có ḷng tin (ông Polkinghorne) và một người không có ḷng tin
(ông Weinberg). Cuối cùng cuộc
tranh luận đă đưa đến ẩu đả.
Nếu
ông Weinberg thật sự là một người không có ḷng
tin th́ đă không có chuyện.
Đằng này, phải nói biến cố là một cuộc
chạm trán giữa hai người cùng có ḷng tin nồng nhiệt,
tuy nhiên mỗi người tin một quan điểm khác hẳn
nhau.
Vấn
đề không phải là khoa học đối chọi với
tôn giáo hay sự tin tưởng nghịch với sự
không tin mà cuộc tranh căi sôi nổi nhất lại xảy
ra giữa hai người cùng có ḷng tin. Một khi hai kẻ tin tưởng
ương ngạnh căi nhau th́ cơ hội ḥa giải hầu
như là không có.
Thực
tế là khoa học cần có tin tưởng. Để xây
dựng thế giới bằng những khái niệm, th́ phải
gỡ nó ra thành từng mảnh mà xem xét. Điều này có giá trị vô
cùng. Cho nên khoa học cần dựa
vào tin tưởng hơn là tôn giáo.
Ngược
lại, tôn giáo không đ̣i hỏi con người phải
tin tưởng để biết Sự Thật v́ trên
căn bản tôn giáo là sự trực hiểu Sự Thật. Cho nên tôn giáo chỉ đ̣i hỏi
con người thật ḷng khát khao thấy biết và thức
tỉnh là đủ.
Tiếc
thay trên thực tế tôn giáo hay xử dụng đến
đức tin, tin một cách tuyệt vọng vào vấn
đề con người từ đâu đến, đến
làm ǵ, đi về đâu, vvÖđể giải thích thế
giới này và sự có mặt của con người trên thế
gian. Như nhà văn và nghiên cứu
thần thoại Joseph Campbell đă từng nói: “Tôn giáo ngăn trở kinh nghiệm
tín ngưỡng v́ nó lồng kinh nghiệm này trong những
khái niệm.”
Phải
rút hẳn tin tưởng ra khỏi phạm vi của tôn
giáo, phải ngăn không lập những mô h́nh khái niệm
sai lạc về thực tại th́ tôn giáo mới mong thành
công. Khoa học có thể dùng
đến tin tưởng, tôn giáo th́ không.
Khoa học
đem thử rất công phu những tin tưởng
được đề bạt ra (gọi là giả thuyết)
để hoặc minh xác hoặc bác bỏ. Nếu kết quả sai th́ các
khoa học gia hoặc loại bỏ giả thuyết hoặc
đưa nó ra dưới một công thức mới và sau
đó được thử lại nhiều lần. Đó là một phương thức
hoàn hảo để t́m ra sự thật, nghĩa là sự
thật tương đối, thực tế và thông dụng.
C̣n Sự
Thật tuyệt đối th́ khoa học không thể giúp
con người t́m ra được. Đó là lănh vực chính đáng và
trách nhiệm của tôn giáo.
Dùng
phương pháp khoa học con người đă làm sáng tỏ
rất nhiều quan niệm sai lầm về bản chất
của thế giới tương đối – thế giới
của vật này vật nọ - và về những sự vật
hoạt động và tác động lẫn nhau ra sao. Nhưng phương pháp này không thể
nào giúp con người hiểu được trực tiếp
và ngay bây giờ chuyện ǵ đang xảy ra. Đó là phạm vi của tôn giáo,
nhưng cũng chỉ khi nào tôn giáo không dùng đến tin
tưởng.
Tôn giáo
không có phương tiện để thử và kiểm
điểm lại những giả thuyết. Nó không cần đến
phương pháp khoa học v́ nó không cần dùng đến
giả thuyết hoặc dựa vào tin tưởng.
Tiếc
thay, v́ mọi tôn giáo kể cả Phật giáo đều mê
say tin tưởng nên mỗi tôn giáo ôm cờ tín ngưỡng
riêng chạy về một hướng, cho thấy con
người thật là mê muội và điên rồ. Kết quả là các tôn giáo tranh chấp
lẫn nhau và tranh chấp với khoa học. Thiền sư Jikai Dainin Katagiri
thường nói: “Chúng ta chiến
đấu dưới lá cờ rực rỡ của tôn
giáo.”
Nhưng
t́nh trạng trên nào phải do tôn giáo gây nên mà v́ con người
luôn luôn muốn dang tay ra nắm giữ lấy một vật
ǵ. Người ta muốn la
lên : “Đây rồi. Sự Thật như thế này
này. Hăy tin đi.”
Làm như thế
th́ chẳng bao giờ đạt được Sự Thật
v́ Sự Thật, tức là Thực Tại rốt ráo, không
phải là cái ǵ có thể tin được nghĩa là phát
biểu được bằng khái niệm.
Đến một
lúc nào th́ phải nhận ra rằng con người thật
sự muốn quay về với Sự Thật. Tâm trạng này được diễn
tả rất hồn nhiên nhưng không kém phần hùng hồn
trong tôn giáo. Đó là cái tâm trong
sáng, không một ham muốn.
Khi để tâm lắng xuống cho vắng lặng
là lúc cảm giác này hiện ra.
Tiếc thay,
người ta thường t́m một vật ǵ ở bên
ngoài, đến ngay cả bên ngoài thế giới này để
được giải thoát. Tất
cả chỉ v́ trong cơn rối loạn và sợ hăi con
người tin rằng ḿnh đă bị xa ĺa Sự Thật. Nhưng không phải vậy. Tôn giáo phải giúp người ta
b́nh tĩnh lại để hiểu rơ điều này.
Trong cuốn “Tâm
Thiền là Tâm của người khởi sự học
đạo”
Shunryu Suzuki đă viết như sau:
Tôi khám phá ra rằng tuyệt
đối không nên tin một cái ǵ.
Nghĩa là chúng ta phải tin vào cái ǵ không h́nh tướng,
không màu sắc, cái ǵ đă hiện hữu từ trước
h́nh tướng và màu sắc.
Đây là điểm rất quan trọng.
Hay là như thiền
sư Trung Hoa Hoàng Bá ở thế kỷ thứ chín đă
nói, “Những kẻ điên rồ bác bỏ những ǵ họ
nh́n thấy, không phải những ǵ họ suy tưởng;
hiền giả bác bỏ những ǵ họ suy tưởng,
không phải những ǵ họ thấy.”
Thay v́ đặt
niềm tin vào những ǵ ḿnh tin, suy nghĩ, giải thích,
bào chữa, hay xây dựng trong óc, nên tập tin tưởng
vào những ǵ ḿnh trực tiếp chứng nghiệm,
trước khi h́nh tướng và màu sắc xuất hiện. Tôn giáo thuần túy có thể giúp
con người làm được điều này.
Hiểu rằng Sự Thật
ở gần kề th́ có thể nh́n thấy ngay mà không cần
ai làm môi giới. Không bậc
thầy nào, tổ chức nào, hệ thống tín ngưỡng
nào, cuốn sách nào, hay bất cứ cái ǵ có thể đem lại
Sự Thật cho con người.
Không thể đạt được Sự Thật
từ bất cứ nơi nào.
Không cần làm như vậy v́ Sự Thật vốn
đă sẵn có bên trong rồi.
Chỉ cần nh́n cho rơ mà thôi.
Những khi ch́m
đắm trong tư tưởng nhị nguyên, con người
thường tự nhủ:
“Ta mê muội quá, cho nên phải giác ngộ mới
được.” Nào ngờ rằng
ḿnh đă giác ngộ rồi.
Ngồi đây mà
cứ vọng tưởng tới cái ǵ tốt đẹp
hơn ở chỗ khác. Phải
đạt cho được, phải thực hiện cho
được. Rồi ngồi
thiền với ư nghĩ rằng nhờ vậy mà ḿnh sẽ
được giác ngộ.
Dù đă được
nghe không biết bao chuyện kể, biết bao thí dụ rằng
đấy không phải là đường dẫn đến
Thực Tại nhưng con người vẫn thành khẩn
tin tưởng.
Ai cũng đă
nghe câu chuyện về Mă Tổ ngồi thiền để
thành Phật và đă tỉnh ngộ khi vị thầy của
ông mài viên ngói nói là để nó thành gương soi mặt. Cũng như mài gạch lâu đến
đâu cũng chẳng thành gương th́ ngồi thiền
lâu đến đâu cũng không thể thành Phật. V́ sao?
Bởi v́ bạn đă là Phật rồi, nghĩa là bạn
không hề xa cách với Thực Tại và Sự Thật. Ấy thế nhưng con người
vẫn sống như thể ḿnh thiếu một vật
ǵ.
Thiền sư
Suzuki nói rằng trong pháp thiền không có tư tưởng
lợi lộc. Nếu có th́
không đúng pháp. Điểm
này được nhắc đi nhắc lại rất nhiều
lần. Tuy vậy, con người
vẫn tiếp tục vui vẻ ngụp lặn trong ảo
mộng, thầm mong rồi sẽ bật được
đúng nút điện và đèn giác ngộ sẽ bật
sáng.
Phải có can
đảm mà nh́n nhận tư tưởng này day dứt
trong óc ḿnh. Rồi th́ đối
phó thế nào? Loại trừ
nó đi hay coi như không có?
“Thật sự ta ngồi thiền đâu phải
để giác ngộ. Chỉ
thiền vậy thôi, không có dụng ư ǵ cả.” Nếu có tư tưởng đó
th́ nên thừa nhận, chẳng nên phủ nhận hay nghĩ
“Ta không nên nghĩ thế.” Tại
sao không? Nghĩ vậy là b́nh
thường, không có ǵ để hổ thẹn. Trên thực tế càng dằn vặt
ḿnh v́ muốn giác ngộ th́ càng nuôi vọng tưởng. Như thế th́ cứ măi tạo
vấn đề dưới h́nh thức này hay h́nh thức
khác.
Thật vậy,
chỉ cần thừa nhận cái ǵ đang xảy ra trong
tâm th́ có thể bắt đầu hiểu được rằng
không thể nào giải thoát một khi c̣n níu lấy sự
khát khao được giác ngộ hay sự khát khao vượt
lên trên ḷng ham muốn giác ngộ.
Đây là điểm phải hiểu cho thật rơ th́
mới từ bỏ được cái tâm vọng tưởng
và bắt đầu thực hành thiền.
Phải hiểu
cho thấu đáo bản chất của cái tâm tham lam thích
níu kéo. Thiền không phải là
vấn đề thêm thắt cái ǵ vào hay rút bỏ cái ǵ ra
khỏi tâm hoặc ngay cả vấn đề phủ nhận
cái tâm hoạt động ra sao.
Những điều này không liên hệ ǵ đến Thực
Tại. Nếu trong lúc này cái
tâm bạn níu kéo th́ nó là thế.
Cứ thành thật mà thừa nhận. Thế thôi.
Một lối
nh́n khác là tự hỏi: Có thể
nào đem một cái ǵ vào hay rút một cái ǵ ra khỏi tâm trí
mà xoa dịu được nỗi đau sâu thẳm trong
tim bạn sao? “Tôi muốn giác
ngộ.” “Tôi muốn thức tỉnh.”
“Tôi muốn hiểu biết.” “Tôi muốn tự do và tâm tôi
được an tịnh.” Giống
như tâm đang ngứa ngáy mà không có bàn tay nào để
găi.
Bạn có tin rằng
có cái ǵ ở “ngoài kia” sẽ thỏa măn được bạn
không – giác ngộ, Niết Bàn, một sự sáng suốt
đặc biệt? Có cái ǵ thật
sự găi được cái ngứa trong tâm bạn
không? Không có. Tạm thời có thể, nhưng
rồi chẳng bao lâu ở kia lại có cái khác làm ngứa
ngáy. Bạn c̣n xa cách th́ c̣n phải
đạt được cái ǵ hay trốn lánh cái ǵ. Những “cái ǵ” đó không bao giờ
hết. Thế nên chính ḿnh cứ
tạo nên cái ngứa mà không bao giờ găi cho hết
được.
Cái ǵ mà bạn chạy
theo chẳng có h́nh tướng mà cũng chẳng không có
h́nh tướng. Không thể nắm
giữ được nó mà cũng chẳng tạo thành khái
niệm hay diễn tả nó được.
Vậy th́ làm thế
nào?
Th́ hăy hiểu t́nh
cảnh của ḿnh, hăy biết rằng cuộc đời
của ḿnh không thể tách ra khỏi Thực Tế, tức
là thế giới như một thực thể đồng
nhất, là cuộc đời của mọi người khác. Nói một cách khác, không có ǵ để
đạt tới. Tất
cả chỉ là một.
Trên thực
tế, có nghĩa là chỉ cần nhận xét trong đời
sống hàng ngày rằng cái tâm của ḿnh luôn luôn níu kéo th́ tự
nhiên sẽ loại trừ được. Chỉ cần nhận ra ngay rằng
chính cái tâm ngứa ngáy khó chịu hay hỏi “Ta có được
lợi lộc ǵ không?” là kẻ gây rối loạn và cần
diệt trừ.
Trong
câu chuyện “Người học làm thầy phù thủy,”
người học tṛ phải làm nhiều công việc tầm
thường trong nhà nhưng anh lại không thích mà chỉ
muốn có thật nhiều quyền phép như thầy
ḿnh.
Từ
khi học được của thầy một vài mánh
khóe, anh học tṛ liền đem ra áp dụng để công
việc của ḿnh được nhẹ nhàng hơn. Anh làm bùa phép lên một cái chổi
để nó nghe theo lệnh và làm việc như kéo nước
từ giếng lên để lấy nước tắm cho
thầy.
Nhưng
có một vấn đề.
Anh học tṛ không biết tất cả để có
thể xử dụng quyền hành cho thích đáng. Anh ta làm cho cái chổi mọc hai
cánh tay, xách thùng và chở nước nhưng đến khi
bảo nó ngừng th́ lại không biết ra lệnh thế
nào. Cho nên dù nước trong bồn
tắm tràn ra ngoài mà cái chổi vẫn tiếp tục đổ
vào.
Người
học tṛ van nài với cái chổi nhưng nó trả lời,
“Tôi không ngừng được; ông phải ra đúng lệnh
cho tôi mới được.”
Người học việc kia đă gây ra một t́nh
trạng rối rắm mà anh không tháo gỡ được. Tuyệt vọng, anh xách ŕu ra chặt
cái chổi làm hai khúc. Tạm
thời th́ êm xuôi. Hai khúc chổi
rơi xuống sàn. Nhưng chỉ
ít lâu sau, mỗi khúc lại mọc lại và trở thành một
cái chổi nguyên vẹn với hai cánh tay. Cả hai cái chổi cùng gánh nuớc
đổ vào bồn làm lụt căn pḥng.
Câu chuyện
nghe thật thảm thương nhưng cũng thật
quen thuộc. Một khi đă
chọn đường mà đi th́ con người thường
nhận thức rằng ḿnh không thể nào ngừng
được nữa. Đă
có quá nhiều quyền hành, đến nỗi không có thể
kham nổi. Muốn xử dụng
quyền này nhưng lại không tự kiềm chế nổi. Con người hay phản ứng
theo t́nh cảm nhất thời nên có thói quen hành động
trước khi hiểu rơ sự vật. Ta hăy lấy kỹ thuật làm máy móc từ hạt
nguyên tử làm thí dụ. Con
người đang thử sáng chế những bộ máy và
người máy li ti có khả năng tự gia tăng sản
xuất. Có thể họ sẽ
thành công trong việc tạo nên nhiều máy móc làm thay công việc
người, nhưng có thể họ cũng sẽ khám phá
ra rằng họ đă tạo ra một cái ǵ đến khi
muốn ngừng th́ lại không ngừng được nữa.
Hăy
tưởng tượng có hàng tỉ bộ máy tí hon có thể
tự sinh sôi nẩy nở từ những vật liệu
trong môi trường. Nếu
thả chúng ra th́ c̣n làm sao điều khiển chúng
được nữa? Chúng sẽ
giống như những vi khuẩn mà không có kháng độc
tố để diệt trừ.
Ông Bill Joy, khoa học gia ở công ty Sun Microsystems
đă hoảng hốt khi nhận ra rằng kỹ thuật
này sắp đến tay không những của những khoa học
gia ở Bell Labs mà c̣n của bất cứ ai có máy điện
toán.
Những
câu chuyện như “Người học làm thầy phù thủy”,
“Quái vật Frankenstein”,
“Trường hợp kỳ dị của Bác Sĩ Jekyll và
Ông Hyde” và lời
tiên đoán hăi hùng của ông Bill Joy chỉ là những thí dụ,
xuất phát từ sự nghi ngờ của con người
về khát vọng làm chủ và khả năng kiềm chế
những thôi thúc của ḿnh.
Cũng
có một câu chuyện thiền về đề tài này. Trong một ngày hội, một
người kia thấy bầy bán một con quỷ với
giá rất rẻ. Anh ta hỏi,
“Nó có thể làm được những ǵ?” Người bán trả lời,
“Con quỷ này có thể làm được mọi việc
cho ông. Ông cứ bảo th́ nó sẽ
làm ngay. Nó giặt quần áo, nấu
cơm, đi chợ, làm hết việc trong nhà. Chỉ có một điều ông phải
nhớ là lúc nào cũng phải ra lệnh cho nó làm việc.”
V́ chỉ
mải nghĩ đến cái lợi tức thời, người
kia thấy rẻ quá nên mua ngay con quỷ đem về nhà.
Lúc
đầu, mọi chuyện trôi chảy. Con quỷ bắt tay ngay vào công việc,
răm rắp làm theo lệnh chủ, sửa mái nhà, nấu
cơm, trồng rau trong vườn. Dĩ nhiên, lúc nào người kia cũng
có việc sai con quỷ làm, cho đến một ngày kia anh
ta có việc phải ra khỏi nhà.
Lát sau trở về th́ thấy con quỷ đang
nướng con người hàng xóm trên bếp.
Thật
là ngớ ngẩn khi nghĩ rằng con người có thể
làm chủ những sự việc ḿnh không thể làm chủ. Ai cũng muốn t́m ra những ǵ
có thể làm cho đời sống ḿnh nhàn hạ dễ chịu
hơn. Chúng ta chỉ biết
quan tâm đến những ǵ lợi lộc cho ḿnh và hiếm
khi nghĩ đến chuyện ǵ bên ngoài hoàn cảnh riêng của
ḿnh.
Điểm
chính của những câu chuyện này và cũng là vấn
đề then chốt của con người là chỉ biết
bận tâm đến chuyện bảo vệ và chiều chuộng
ḿnh thôi. Càng lo cho
ḿnh được an toàn th́ càng cảm thấy bất
an. Càng muốn đạt nhiều
kiến thức th́ lại càng bối rối thêm. Càng tham quyền th́ càng phá hoại
khả năng khéo léo vận dụng quyền hành. Cứ để bản ngă lôi kéo
th́ chỉ đạt được những ǵ trái với
điều ḿnh đeo đuổi.
Vấn đề
đặt ra là: Con người
có thể nào có một cái tâm khác không?
Hăy xét tâm của
Hàn Sơn, một người sống bên Trung Hoa dưới
đời nhà Đường và là một nhân vật quen
thuộc trong văn chương thiền. Tên của ông tiếng Trung Hoa có
nghĩa là “Núi Lạnh.” Theo
truyền thống, tên của ông được lấy từ
nơi ông sinh sống, tức là rặng núi Thiên Thai bên Trung
Hoa. Hàn Sơn ở gần chùa
Quốc Thanh.
Ông là bạn thiết
với Thập Đắc, bếp chánh ở chùa Quốc
Thanh. Trong chuyện thiền,
hai ông thường được tả như hai người
xuẩn ngốc, cười vui từ những chuyện nhỏ
nhặt tầm thường, chẳng hạn như lúc chiếc
lá ĺa cành.
Hàn Sơn là một
tâm hồn phóng khoáng, không để ư đến lời phê
b́nh của những người chung quanh. Bị chê cười là ngu xuẩn
v́ ăn mặc nghèo nàn, rách rưới, bẩn thỉu
nhưng ông chẳng hề bận tâm. Dù Hàn Sơn không đi tu nhưng
thầy trụ tŕ ở chùa nói ông c̣n có trí huệ hơn tất
cả các tăng sĩ ở đó.
Thỉnh thoảng khi rời Quốc Thanh tự để
về Hàn Sơn th́ các tăng sĩ đuổi theo trêu ghẹo. Ông chỉ cười theo và tiếp
tục rạo bước.
Hàn Sơn hay viết
thơ rồi dán lên hốc đá, cây hay tường. Có người thu lượm
được nên ngày nay chúng ta mới có mà đọc. Có tất cả hơn ba trăm
bài cho ta thấy tâm của Hàn Sơn không giống tâm thường
t́nh của con người.
Hàn Sơn viết :
Người hỏi
đường nào lên Hàn Sơn
Làm chi có lối.
Ngày hè tuyết cũng chẳng
tan
Sương mù che lấp mặt
trời đang lên.
Làm sao ta tới được
đây ?
Tâm ta chẳng giống tâm
người.
Tâm người nếu giống
tâm ta
Th́ người đă tới
nơi đây.
Gập ai ta
chỉ nói,
“ Hăy
đến Hàn Sơn. ”
Khi mới
học thiền ai cũng ṭ ṃ về Hàn Sơn, ai cũng muốn
t́m đường tới Hàn Sơn. Họ thường hỏi,
“ Làm sao tôi có thể như vậy được ? Làm sao tâm tôi có thể thảnh
thơi như tâm Hàn Sơn ? ”
Nhưng,
như Hàn Sơn đă trả lời, “ Không có lối
nào cả. ” Thật vậy,
chẳng có lối nào dẫn đến đây cả.
Khi
đặt câu hỏi trên, con người không hiểu ngay cả
câu ḿnh hỏi. Họ tưởng
họ đ̣i được giải thoát nhưng thật sự
họ chỉ muốn đ̣i cái ǵ ở bên ngoài, cái ǵ có thể
nắm giữ, điều khiển và xử dụng để
được an nhàn. Cho nên mới
tưởng rằng Hàn Sơn hay Thiền sẽ cung cấp
cho ḿnh bản đồ dẫn đến đó.
Hàn
Sơn không chơi tṛ này và cả bạn cũng vậy. Bạn đă ở đây rồi,
lúc nào cũng vẫn ở đây, có bao giờ rời khỏi
đâu.
Người
ta tưởng phải đạt được cái này,
tránh cái kia, phải làm chủ cái này, điều khiển
cái kia, và nhất là tưởng những kẻ như ḿnh
th́ không bao giờ đến được Hàn Sơn. Lầm to !
Nhà
văn Wallace Stevens có ám chỉ đến cái tâm này trong bài
thơ “ Người Tuyết. ”
Phải có
tâm mùa đông
Th́ mới
biết nh́n sương giá
Và những
cành thông tuyết phủ đầy.
Phải là lạnh
giá từ lâu
Mới biết
ngắm cây cối lởm chởm băng,
Và từ
đằng xa những cây vân sam lấp lánh
Ánh mặt
trời tháng giêng ; mà không nghĩ đến
Phiền năo
lúc gió thổi,
Vài chiếc
lá kêu sào sạc.
Đấy
cũng là tiếng ḷng đất
Chan chứa
cùng một làn gió
Đang thổi
cùng chốn hoang dă
V́ người lắng nghe
trong tuyết,
Không chút nào là ḿnh, ngắm
Chẳng vật ǵ không ở
đó và cũng chẳng vật ǵ ở đó.
Như Hàn Sơn, Wallace
Stevens không phải là một tăng sĩ (thật ra ông là một
thương gia giầu có) nhưng ông hiểu cái tâm trọn
vẹn bao gồm tất cả trong ḿnh.
Thiền là biết
cái tâm đó, cái tâm mà ta chỉ gập tại đây. Không có đường dẫn
đến đó. Chúng ta đă
ở đây rồi. Tất
cả chúng ta. Nếu là mùa
đông th́ phải có tâm mùa đông – thật vậy, phải
là mùa đông th́ mới ở đây được. Nghĩa là không nghĩ đến
mùa xuân, không mong ước mùa hè, không ao ước cái ǵ
không thể có bây giờ, tại đây. Cái tâm đó không với tới
nơi nào khác.
Không có
lối nào dẫn đến đó.
Chúng ta đă ở đây rồi. Tất cả chúng ta. Nếu là mùa đông th́ phải có
tâm mùa đông – thật vậy, phải là mùa đông –
th́ mới ở đây được. Nghĩa là không nghĩ đến
mùa xuân, không mong mỏi mùa hè hay cái ǵ không có ở đây bây
giờ. Cái tâm này không với tới
một nơi chốn nào khác.
Và nếu
là mùa hè, th́ phải có tâm mùa hè.
Không có
nơi nào khác. Măi măi chúng ta ở
tại đây.
Con
người không phải làm chủ thế giới, không phải
bảo vệ ḿnh chống lại thế giới, không phải
ǵn giữ cái ǵ, chỉ cần hoàn toàn ở ngay tại
đây và đáp ứng với hoàn cảnh hiện thời.
Có ở
ngay tại đây th́ mới thấy chẳng có ǵ không ở
đây, th́ sẽ không rơi trong ảo tưởng của
bản ngă, lo chiều ḷng hay bảo vệ nó.
Sự
Thật không là ǵ khác hay ở đâu khác. Không có mô h́nh, không có biểu đồ,
không thể viết ra được, không thể nắm
giữ trong tâm được.
Hàn Sơn đă nói rơ điều này.
Chỉ
có một chỗ : tại đây, bây giờ. Cho nên Hàn Sơn mới nói, “ Nếu
tâm bạn như tâm tôi, th́ bạn cũng sẽ ở
đây. ” Ở đây th́ giải
thoát khỏi điên rồ, sợ hăi, lo lắng, đấu
tranh, cố gắng, ḷng khát khao quyền hành và thói quen
đi t́m sự an toàn và trốn chạy khổ đau.
Khi Hàn
Sơn viết, “ Gập ai tôi cũng nói : Hăy đến
Hàn Sơn, ” đấy chính là ông muốn mời mỗi
người hăy chỉ ở ngay đây, để tỉnh
thức mà nhận ra cái tâm điên dại, trái tim tham lam của
ḿnh.
Đi
đến Hàn Sơn là thế.
Con
người tưởng tượng cuộc đời có
nhiều bí mật nhưng không phải vậy. Bí mật là do ḿnh tạo ra trong
tâm trí. Người ta đă bầy
ra biết bao tư tưởng về Thượng Đế,
Sự Thật, Thực Tại, Đức Phật, tính tốt
hay bất luận cái ǵ mà cũng chẳng hay biết.
Một
khi tạo dựng cái ǵ trong tâm là có bí mật. Chẳng hạn khi người ta
gán cho ư niệm Thượng Đế thật nhiều
đặc điểm. Nào là
“Thượng Đế tốt ”, “ Thượng
Đế có kế hoạch cho tôi ”, “ Thượng Đế là
đàn ông hay đàn bà ”, “ Thượng Đế
hành động rất bí mật. ”
Cũng
như thế, người ta tạo ra những ư niệm về
tốt-xấu, thiên đàng-địa ngục, thiên thần-quỷ
thần. Tất cả
được bao phủ trong bí mật chỉ v́ chúng
đă được khái niệm hóa. Con người đă bịa đặt
ra chúng.
William
Shakespeare trong kịch bản “ Giông Tố ”
đă viết một câu được người đời
nhắc nhở rất nhiều:
“ Con người là do mộng tạo ra nên cả
cuộc đời là một giấc ngủ. ” Ông viết như một người
đă tỉnh thức. Nhiều
đoạn trong văn chương Phật giáo có nhận
xét tương tự rằng cuộc đời chỉ là
một giấc chiêm bao, một ảo mộng.
Người
đă tỉnh thức nh́n thấy rơ ràng sự kiện
này. Thật ra chính v́ giác ngộ
giống như tỉnh dậy sau một cơn mộng nên
những người này được gọi là đă tỉnh
thức. Thực tại hàng
ngày như một giấc mơ nhưng người ta không
nhận thức được, không hiểu được
rằng đó chỉ là một thực tại giả tạo,
do cái tâm tạo dựng nên.
Liền
sau khi tỉnh một giấc mộng th́ những kinh nghiệm
trong mộng, những âm thanh, màu sắc, mùi vị, cảm
giác vẫn c̣n rất sống động nhưng rồi cũng
mau nhạt phai. Người ta
nói, “ Chỉ là một giấc mộng !”
Chỉ
là một giấc mộngÖ rồi sao ? Bây giờ th́ “ Tôi tỉnh rồi.
Tôi đă trở lại thực tại.” Tuy nhiên, đối với kẻ
đă tỉnh thức, cuộc đời này vẫn chỉ
do cái tâm tưởng tượng ra, vẫn chưa là tỉnh
hẳn.
Con
người không hiểu chuyện ǵ xảy ra chung quanh,
không hiểu sống để làm ǵ, không hiểu “vấn
đề lớn,” thật ra cũng không hỉểu vấn
đề đó là ǵ nữa.
Cuộc
đời này để làm ǵ?
Con người từ đâu đến? Rồi đi về đâu? Tại sao lại có “một cái ǵ”
và “không có ǵ”? Khi suy tư về
những vấn đề trên th́ thế giới có vẻ
thật khó hiểu và huyền ảo.
Nh́n
quanh quẩn th́ thấy cái ǵ cũng bí ẩn và hăo huyền. Nh́n sáu bảy thước chung
quanh th́ sự vật rơ ràng lắm, nhưng nh́n xa hơn th́
cái ǵ cũng trở nên mờ ảo. Nh́n thật xa th́ không c̣n thấy
ǵ nữa. Chúng ta không hiểu
đời sống của con người, thật là không
hiểu ǵ cả.
Nh́n về
quá khứ cũng vậy: cuộc đời nhạt nḥa mờ
ảo. Có những kỷ niệm
sống động thật nhưng chúng thuộc một thế
giới không có trong hiện tại.
Hướng
về tương lai cũng thế. Người ta có thể suy
đoán và tưởng tượng, ước mơ và mong
chờ, hay lo sợ hăi hùng, cũng vẫn chỉ là những
điều huyền bí.
Bóng tối
hoàn toàn bao trùm con người, cả trong thời gian lẫn
không gian, không chỉ ở nghĩa bóng mà c̣n cả ở nghĩa
đen. Ban đêm nh́n ngắm bầu
trời xa thẳm chỉ thấy bóng đen bao quanh.
Vậy
như thế đó, con người ở đây sống một
cuộc sống huyền ảo.
Một khi bước ra khỏi cái ṿng rực rỡ
của những bận tâm trước mắt th́ tất cả
trở nên mờ ảo đen tối.
Nhưng
đối với những kẻ đă thức tỉnh, Thực
Tại hoàn toàn khác hẳn. Chỉ
có những điều bí ẩn trong những chuyện thông
thường hàng ngày: Không hiểu
tại sao máy điện toán không chạy? Ai gây ra tiếng động dưới
nhà xe? Cuốn sách ḿnh thích
đọc để trên kệ này bây giờ lạc đâu
rồi? Những bí hiểm
đó lúc nào cũng ở gần bên. Nhưng người đă tỉnh
thức nh́n thấy quanh con người và những bóng tối
đó là ánh sáng. Không có bí mật
nào cả. Thực tại rất
minh bạch, hiển nhiên và sáng chói.
Nếu bạn chú tâm vào kinh nghiệm hiện tại
th́ cũng thấy như vậy.
Thật sự không có bí ẩn cơ bản nào cả,
cho đến khi bạn bắt đầu níu kéo.
Đức
Phật khuyên, “Hăy là ánh sáng cho chính ḿnh; đừng dựa
vào bất cứ cái ǵ ở bên ngoài.” Tại sao vậy? Bởi v́ chẳng có điểm
nào để nương tựa vào cả. Cái mà bạn muốn nắm giữ
để nuôi dưỡng bạn chỉ là sản phẩm
của bộ óc giầu tưởng tượng. Cuối cùng th́ nỗi khát khao
này chỉ ngăn trở bạn và kéo dài cảm giác yếu
kém của bạn.
Tốt hơn hết
cứ nên thẳng thắn nh́n vào hoàn cảnh cho đứng
đắn th́ trực hiểu tức thời chuyện ǵ
đang xảy ra, th́ nhận thức ngay được rằng
bạn đă có đầy đủ tất cả rồi.
Một khi c̣n nh́n
ḿnh như một bản ngă riêng rẽ th́ không thể nào hiểu
được rằng ḿnh c̣n đang bị vướng mắc
trong guồng máy tư tưởng.
Tất cả là do cái tâm bịa đặt ra. Rồi kèm theo là ḷng ham muốn bảo
vệ cái “tôi” mà tâm trí đă tưởng tượng
ra. Thảm kịch là con
người không ư thức được rằng tự
ḿnh gây cho ḿnh một hoàn cảnh khó xử, tự ḿnh lo bảo
vệ và chiều đăi “cái tôi” nhỏ nhoi, để rồi
chẳng nhận ra rằng không bao giờ thỏa măn
được nó cả.
Thi sĩ Pháp
Jacques Prévert đă tóm tắt t́nh trạng rối loạn
căn bản này rất khéo léo trong những câu thơ sau
đây :
Tôi là tôi
như thế
Tôi sinh ra
như vậy
Bạn c̣n
muốn ǵ nữa
Bạn c̣n mong chờ ǵ ở
tôi ?
“ Tôi sinh ra như vậy. ” Như vậy là thế
nào ? Ai cũng thấy không
có ǵ bất biến cả.
“ Bạn mong chờ ǵ ở
tôi ? ” Mọi người,
kể cả chính bạn (một khi bạn thật sự
muốn sống an lạc thay v́ bị cái h́nh ảnh tưởng
tượng kia mà bạn cố gắng bảo vệ và chiều
chuộng hành hạ), mong mỏi bạn là Phật, nghĩa
là tỉnh giác.
Phật là
ǵ? Là Thực Tại, là tất cả, là không riêng một
cái ǵ.
Tại
sao không sống như thể đă hiểu sự thật
là thế, là không có ǵ ngăn cách bạn với Thực Tại ? Sống được như vậy
th́ không c̣n bí mật trong đời sống. Chỉ có bí mật khi con người
tự tách ḿnh ra khỏi mọi sự vật chung quanh và
chia chẻ thế giới thành cái này cái nọ.
Thực
Tại không phải là một tư tưởng, không phải
là điều con người tưởng tượng,
không phải là cái ǵ họ có thể nghĩ đến
được. Thực Tại
là cái ǵ chứng nghiệm ngay trong hiện tại.
Thực
Tại là “ như thế. ”
Sự Thật là “ như thế. ” Vấn đề đặt ra là,
“ Bạn là thế nào ? ”
Một khái niệm mà người ta
thường gán cho đạo Phật là đầu
thai. Thật ra có đi ngược
trở về thời Đức Phật mà t́m th́ không thấy
có giáo lư này. Đức Phật
không nói đến đầu thai mà chỉ dạy về
tái sinh. Mặc dù hai khái niệm
thường hay được dùng lẫn lộn, chúng
không giống nhau chút nào.
Thông thường người ta hiểu
rằng con người sinh ra đời, sống một thời
gian rồi chết. Kiến thức
này đă gây ra một vấn đề trầm trọng cho
nhân loại. Con người sợ
chết. Khái niệm chết
làm họ lo âu khắc khoải.
Họ muốn biết, “Chết rồi đi về
đâu? Tan biến đi hay
sao?”
Con người phản ứng
lại bằng cách tạo rất nhiều hệ thống
tin tưởng và quan niệm để bám víu vào. Nào là thiên đường và địa
ngục, hư không và lăng quên, rồi đầu thai. “Tôi sẽ đầu thai làm
người khác.” Thỉnh thoảng
lại có tư tưởng rằng nếu ḿnh sống ngay
thẳng th́ sẽ đầu thai vào những hoàn cảnh
thuận lợi hơn.
Có một quan niệm của
Ấn Độ giáo cho rằng sống rất tử tế
th́ sẽ đầu thai thành một vị thần. Nhiều người, kể cả
nhiều Phật tử, tin tưởng rằng xử sự
tốt nhưng chưa hẳn là thượng thặng th́
kiếp sau sẽ đầu thai làm người. Sống tệ bạc th́ sẽ trở
lại làm súc vật hay cây cỏ.
C̣n nếu quá tệ th́ phải đầu thai làm khoáng
vật.
Tất cả những khái
niệm trên đều cho rằng có một thực thể
hiện có tại đây bây giờ sẽ tiếp tục tồn
tại dưới một dạng khác sau khi thân xác này chết
và tan ră.
Có một nghi vấn
được đặt ra.
Nếu thực thể chuyển biến qua một
h́nh thể khác th́ nó giống thực thể cũ ở
điểm nào? Làm sao nó có thể
tiếp tục hiện hữu như trước
được? Nếu không
th́ đầu thai là thế nào?
Thật vậy, ngay cả “nó” cũng dùng để ám
chỉ cái ǵ?
Không biết. Làm sao một cái ǵ có thể vừa
là nó vừa là cái ǵ khác?
Tuy nhiên, nhiều người
vẫn khăng khăng tin rằng có khía cạnh này của
con người, linh hồn hay bản ngă, vẫn c̣n và đầu
thai trở lại ở những kiếp sau.
Phần Phật pháp mà nhiều
người không hiểu hay không biết đến là
như sau. Chính Đức Phật
đă chỉ cho thấy rằng quan điểm này thiếu
sót và quá khích. Nó được
mệnh danh là quan điểm thường hằng, nghĩa
là cho rằng có một bản ngă trường cửu, một
linh hồn, tiếp tục hiện hữu sau khi thân xác chết
đi. Nhưng người
đă tỉnh thức th́ thấy ngay rằng không có ǵ vĩnh
củu, cho nên quan điểm thường hằng không thể
đứng vững.
Đây không phải là vấn
đề tin tưởng.
Người đă giác ngộ không tin tưởng ǵ cả.
Phải luôn luôn cảnh giác
đối với những điều ḿnh mong ước,
những điểm ḿnh nghiêng về. Con người có khuynh hướng
níu lấy những lời giải thích hợp với khát
khao vị kỷ của ḿnh.
Phải nh́n thấy cho rơ cái tâm thích níu kéo những ǵ
dính líu đến “cái tôi”, thích chiều chuộng, bảo vệ
và ǵn giữ “cái tôi” như thế nào.
Đức Phật dậy
rằng có trí huệ mà nh́n được cho đứng
đắn là thấy biết được rằng không
có cái ǵ trường tồn bất biến mà luôn luôn vận
chuyển và biến đổi.
Khi thấy rơ như thế th́ không c̣n coi khái niệm
trường cửu là quan trọng nữa. Nói cách khác, có thẳng thắn mà
nh́n vào kinh nghiệm thông thường không thêm không bớt
th́ hiểu ngay rằng quan điểm về một cái tôi
bất biến không thể đứng vững.
Thiền sư Nhật Bản
Vĩnh B́nh Đạo Nguyên ở thế kỷ thứ
mười ba đă nói, “Cũng như củi một khi
đă cháy rụi thành tro th́ không trở lại thành củi
được nữa, một người chết đi cũng
không sống lại được nữa.” Có trở lại chăng nữa
th́ cũng không c̣n là người cũ (v́ là người khác
rồi) mà cũng không là người khác (v́ như thế
th́ không c̣n là người cũ nữa).
Thực tế là trong đời
con người không là một thực thể bất biến. Bạn ngày hôm nay không phải là
con người của 10, 20 năm trước đây, ngay
cả của 10, 20 phút trước đây.
Hăy ngắm bàn tay giữ cuốn
sách này. Trong khoảng thời
gian ngắn ngủi này, nó cũng không giống cái bàn tay lúc
cầm sách lên. Máu chảy trong
đó đă thay đổi. Có
những chất đă được bài tiết ra và có những
chất khác đă thấm qua làn da.
H́nh thể xương, bắp thịt, gân đă biến
đổi; da đă lột đi; móng tay móng chân đă mọc
dài ra. Tất cả trong thân
tâm chúng ta và toàn thế giới đă, đang và sẽ tiếp
tục biến đổi.
Vấn đề của
con người là cứ cho rằng những tiếng tôi,
anh, chị, nó ám chỉ một vài khía cạnh có thật
của kinh nghiệm hiện tại. Sự thật là người ta
không chứng nghiệm được một bản ngă bất
biến nào cả. Xem xét cho kỹ
th́ sẽ thấy ngay rằng bản ngă là một quan niệm
do cái tâm đặt ra. Đồng
thời, quan niệm này lại rất mâu thuẫn.
Đức Phật đề
cập đến sự tái sinh (từ ngữ dùng là “ư thức
tái sinh”), chứ không phải đầu thai. Từng giây từng phút thế giới
biến đổi và cho ra đời một thế giới
mới. Ư thức tái sinh là sự
thấy biết rằng khoảng khắc này không phải
là khoảng khắc (mới) này.
Người ở đây lúc này không giống người
ở đây (trong khoảng khắc mới này) lúc này. Không có vật ǵ tồn tại. Không có ǵ lập lại. Không có ǵ trở lại. Mỗi chốc đều mới,
tươi mát, vô song, vô thường.
Ư thức tái sinh là chất
“keo quan điểm” dính liền những khoảng khắc
lại với nhau. Thay v́ xem
chiếu thật nhanh nhiều khung ảnh rời rạc của
một cuốn phim, khán giả thấy những h́nh ảnh
vận chuyển ăn khớp với nhau. Nói cách khác, khoảng khắc này giống
khoảng khắc (kế tiếp), cũng giống khoảng
khắc (kế tiếp).
Nhưng thật sự không có khoảng khắc nào giống
hệt nhau. Mỗi khoảng
khắc là một thế giới vừa tái sinh.
Na-Tiên, triết gia Ấn
Độ ở thế kỷ thứ hai vạch rơ rằng
qua từng giây từng phút không có ǵ tồn tại, dù chỉ
đôi chút. Ông gọi đó là
tánh không và là ư nghĩa trung thực của tánh vô thường.
Nhận xét này, dựa trên
kinh nghiệm trực tiếp tức thời, không phù hợp
với bất cứ quan điểm đầu thai nào, bởi
v́ như thế là tin rằng có một bản ngă tồn tại
hay một thực thể có h́nh dạng.
Khoảng khắc này đă
tái sinh nhiều lần trong lúc chúng ta đọc
chương sách này. Tập
nh́n thấy rơ sự kiện này là phương pháp giải
thoát mà Đức Phật đă chỉ dẫn cho con người.
Thiền ngữ có câu sống
chết là chuyện vô thường và đến rất
nhanh. Câu này được coi
như một giáo lư bí truyền mặc dù ở đâu cũng
nói đến. Thật vậy,
bí mật này lúc nào cũng ở ngay trước mặt mọi
người. Đi đâu mà
nh́n cũng thấy. Chỉ cần
nh́n là thấy ngay rằng ở đời không có sự vĩnh
cửu. Có sống có chết
trong từng giây phút. Không có ǵ
thường hằng.
Cái mà con người mải
mê đi t́m thường ở ngay trước mắt ở
chỗ dễ thấy. Chẳng
hạn, khi tôi c̣n bé mẹ tôi thường giấu trứng
Phục Sinh để anh chị em chúng tôi đi t́m. Chúng tôi lục lọi đằng
sau màn cửa, dưới ghế, trong lồng đèn
nhưng những quả trứng mẹ tôi để ở
những chỗ dễ thấy nhất th́ chúng tôi lại
t́m thấy sau cùng.
Bây giờ con người cũng
thế. Mặc dù tưởng
ḿnh đi t́m sự thật nhưng lại không xem xét kỹ
những chuyện đang xảy ra. Bị vướng mắc trong những
tư tưởng, khát vọng, lo sợ, bản ngă gây
chướng ngại khiến họ không trực nghiệm
được khoảng khắc hiện tại. Tất cả lồ lộ ra
đó nhưng không nh́n đến mà chỉ chú tâm đến
tư tưởng của ḿnh, những ǵ ḿnh mong t́m ra.
V́ mải mê với những
cảm xúc và đối tượng do tâm tạo ra, những
vật này càng trở nên thật hơn và càng bám chặt lấy
con người. Hơn nữa,
dường như ai cũng bị rơi vào t́nh trạng
này nên họ cùng tạo ra và cùng chia sẻ ảo tưởng.
Dĩ nhiên, mỗi người
cũng có những ảo mộng riêng, những quan điểm
riêng để phân biệt ḿnh với những người
chung quanh. V́ cứ ôm giữ thật
chặt những tư tưởng này nên mặc thực tại
phơi bày ra trước mắt con người vẫn
không màng tới mà trái lại rất hoan hỷ làm khán giả
của những ư nghĩ của ḿnh.
Sự thật là không có một
vật ǵ bất biến dù chỉ trong một khoảng khắc
ngắn ngủi. Vạn vật
biến chuyển ở một vận tốc cao đến
độ mà người ta có thể nói là không có ǵ thay
đổi cả v́ không vật nào được tạo
ra hay không biến đổi được lâu. Không phải chỉ có thế giới
vô thường mà ngay cả giây phút này khi mà vạn vật
thể hiện cũng vô thường. Có xét kỹ kinh nghiệm hiện
tại th́ không thấy một thế giới thay đổi
liên tục mà chỉ thấy một gịng luân lưu biến
chuyển mà người ta gọi là thế giới.
Đức Phật nhận
xét rằng ư tưởng có sự hiện hữu hay trường
cửu là sai lầm, nhưng ư tưởng không có sự hiện
hữu cũng sai lầm. Nhiều
người cho rằng Phật pháp dạy là vạn vật
vô thường, biến chuyển liên tục, sinh rồi diệt
không ngừng. Nhưng thực
tế không như thế và Đức Phật cũng không
nói như thế. Ngài nh́n thấy
rằng không có vật nào được sinh ra và cũng
không có vật nào bị hủy diệt.
Có cố mà t́m trong thế
giới này một cái ǵ để an ủi, để giải
thoát con người khỏi hoang mang phiền năo th́ sẽ
chẳng bao giờ t́m thấy.
Trái lại sẽ chỉ t́m được nó trong khoảng
khắc ngắn ngủi vô thường này.
Dọc theo bờ biển
nước Brazil người ta xây khách sạn và biệt thự
ở những nơi mà khi xưa những khóm đước
thường mọc. Sáu
mươi phần trăm loại cây này đă bị tiêu hủy,
những cây c̣n lại cũng biến dần.
Các chất bổ dưỡng
thường theo ḍng sông mà chảy vào các cây đước
này nuôi dưỡng biết bao sinh vật. Bây giờ v́ không c̣n chúng nữa,
chất dinh dưỡng trôi hết ra biển, trong khi những
sinh vật c̣n lại chết dần.
Ngoài khơi, các rặng san
hô cũng dần dần bị tiêu diệt v́ đất bồi
trước đây chảy vào các cây đước nay
đổ ra biển rồi đọng lại trên san hô, che
hết ánh nắng nên san hô và các sinh vật sống nhờ
nó cũng dần dần chết.
Cứ theo mức tiêu diệt
hiện nay th́ chỉ trong ṿng 10 năm nữa, tất cả
các cây đước trên thế giới sẽ bị tiêu
diệt. Từ cả triệu
năm nay có bao nhiêu sinh vật đă sống nhờ
chúng? Và con người đă dựa
trên bao nhiêu sinh vật này để sinh sống?
Trên thực tế, vạn
vật đều nương tựa vào nhau. Không thể nào tách vật nào
ra. Thực tại được
kết cấu quá chặt chẽ không để vật ǵ lọt
ra ngoài. Vạn vật ở
ngay đây và tác động nhịp nhàng với nhau, không cần
bàn tay nào thu xếp hộ.
Nhận xét trên của Đức
Phật rất tinh vi và sâu xa.
Ngài muốn nói đến ư chí của con người
lúc nào cũng muốn xen vào tiến tŕnh của thiên nhiên
nhưng không được v́ dùng cái tâm đối đăi
th́ chỉ đưa đến hỗn loạn. Thật sự nhân loại không cố
ư và cũng không biết rằng xen vào là đi ngược
lại luật tự nhiên.
Thiên nhiên đồng nhất. Vạn vật hoạt động
như một khối toàn vẹn, chứ không phải
như nhiều bộ phận rời rạc. Không có ǵ bỏ đi, cũng không
có ǵ thiếu. Cũng chẳng
có mục đích cải thiện ǵ cả.
Con người nên nhận
thức ngay rằng thế giới này đơn nhất. Cho nên dùng tâm nhị nguyên để
nh́n thực tại là không thích hợp. Không có nghĩa là cứ ngồi bất
động và không làm ǵ. Cũng
không được v́ con người là một phần của
cái khối đầy đủ đó. Vậy nên hành động nhưng
những hành động này phải phù hợp với thực
tại.
Một trong những giáo lư
thiền cổ nhất là “không hai”.
Thế nghĩa là ǵ? Không
hai là chia thế giới thành cái này và cái kia, người và
ta, xấu và tốt, phải và trái.
Cứ có ư niệm, th́ có nhị nguyên. Trong đời sống hàng ngày phải
có phân biệt th́ mới liên lạc được với
nhau và sinh hoạt được trong một thế giới
đa diện. Nhưng nhị
nguyên không thể diễn đạt chính xác được
Thực Tại. Trái lại, nó
du con người vào nhiều hoàn cảnh khó khăn, sợ
hăi, rối loạn. Tuy có những
tư tưởng nhị nguyên nhưng con người lại
không sống thật sự trong nhị nguyên.
Nhị nguyên không đúng hay
sai. Chỉ là con người cứ
bị vướng mắc trong đó mà tưởng rằng
nghĩ ǵ trong tâm th́ trên thực tế phải như vậy,
sắp xếp sự việc ra từng nhóm th́ nắm vững
được t́nh thế. Kết
quả là họ thường xử sự trái nghịch hẳn
với thực tế.
Chẳng hạn, họ cho một số
vật là thánh và một số khác là tầm thường. Họ phân biệt siêu việt với
trần tục, tin tưởng và mê lầm, sáng suốt và ảo
tưởng. Có những tư
tưởng như thế là rơi vào thói quen nhị nguyên,
là tự đặt ḿnh vào tư thế tranh chấp với
người khác, với thế giới và cả với
chính ḿnh.
Cho nên Bồ Đề Đạt Ma, tổ
thứ nhất của ḍng thiền Trung Hoa, nói rằng phân
biệt giác ngộ với mê lầm, đối xử với
người đă giác ngộ khác với người c̣n mê
muội là sai lầm và không phù hợp với lời dạy
của Đức Phật. Làm
như thế th́ chỉ càng khiến trạng thái giác ngộ
thêm xa vời, bí hiểm và không thể thực hiện.
Thiền là để thoát khỏi những
tư tưởng như thế.
Không có nghĩa là không nên phân biệt giác ngộ với
mê lầm, nhưng phải nhớ rằng sự phân biệt
đó chỉ có trong tâm thôi chứ không hề có trong thực
tại. Thật sự chẳng
có ai giác ngộ hay mê lầm.
Con người tưởng thế thôi. Ngay cả ư tưởng có một
người đặc biệt nào cũng là một cách phân
biệt tạm thời thực dụng trong đời sống
hàng ngày, nhưng thật ra không phù hợp với Thực Tại.
Một khi đă quen thuộc với giáo
lư Phật, người ta thường nghĩ rằng giác
ngộ là phần thưởng tột cùng và dĩ nhiên là
nên cố gắng đạt cho bằng được. Có những tư tưởng
như thế chỉ là tạo thêm ảo tưởng. Các thiền sư xưa cũng
như nay đều luôn luôn nhắc nhở người ta
rằng nghĩ như thế là nghịch với thực tại.
Thông thường người ta nghe thấy
thế th́ gật gù tán đồng nhưng không thật
thông hiểu mà vẫn tiếp tục nghĩ theo tư
tưởng nhị nguyên, vẫn cho rằng giác ngộ là
cái ǵ ở bên ngoài, một vấn đề của ai khác
không cần quan tâm đến.
Như thế là lại đắp thêm một lớp
nhị nguyên bên ngoài vấn đề nhị nguyên mà không
nh́n rơ ḿnh đang đứng trên nền tảng nào.
Nên suy gẫm về giáo lư này, đừng
nên xem thường nó. Từng
giây từng phút một xem nó muốn ám chỉ cái ǵ và ḿnh phải
làm ǵ.
Không thể nghĩ bàn về Thực Tại. Có nói ǵ th́ cũng chỉ là dùng
khái niệm, là phân biệt.
Giáo lư thiền vượt hẳn lên trên trí thức. Phải suy gẫm nhiều về
vấn đề này mới lănh hội được
để mà thực hành.
Phải tập trở về giây phút hiện
tại để nhận thấy trong tâm chỉ toàn tư
tưởng nhị nguyên: phê b́nh và bám víu, níu kéo cái ḿnh cho là
thánh, khinh rẻ cái ḿnh cho là tầm thường. Có nh́n ra thói quen này mới t́m
được lối thoát để khỏi bị lạc
trong đó.
Tư tưởng và quan điểm
không giúp con nguời t́m ra sự thật mà c̣n ngăn trở
khả năng vốn có để trực diện Thực
Tại. Tư tưởng, bất
luận như thế nào và về vấn đề ǵ,
đều không phù hợp với thực tại. Một khi biết vậy th́ không
c̣n chạy đôn đáo để t́m kiếm nữa, th́ hiểu
ngay rằng có t́m ra giải đáp nào th́ cũng chỉ là ư
niệm, là nhị nguyên trong khi Thực Tại hoàn toàn đồng
nhất. Một điều hiển
nhiên nữa là không cần phải giải thích mà chỉ cần
nh́n cho rơ.
Sự thật không phải là một
tư tưởng hay một tin tưởng có thể nắm
giữ hay nghĩ bàn, nhưng có thể nh́n trực tiếp
được. Dần dà th́
người ta sẽ biết nh́n trực tiếp mà không cần
giải thích và sẽ hiểu thế nào là sự thật. Con người đă biết sự
thật rồi, chỉ cần nhắc nhở là nhớ lại.
Thiền là để tỉnh
thức, tỉnh giác. Nhưng
làm thế nào để tỉnh thức? Thế nào là tỉnh thức?
Hoàng Bá, một thiền
sư Trung Hoa ở thế kỷ thứ bảy, có nói:
“Nếu các đạo sinh không đánh thức cái tâm này,
th́ lại dùng tư tưởng mà che lấp nó mất. Thế là lại t́m Phật bên
ngoài, lại tham đắm h́nh tướng, cúng lạy,
v.v... Chỉ có hại, không
đưa đến kiến thức tối thượng.”
Để giúp môn đệ
của ḿnh tỉnh thức, các thiền sư thường
hay dùng một số từ ngữ và khái niệm để
chỉ Thực Tại.
Nhưng Thực Tại không thể nghĩ bàn
được nên đôi khi những điều họ nói
nghe thật nghịch lư, điên rồ, lố bịch. Noi gương họ không khó
nhưng hiểu lầm họ cũng rất dễ. Cho nên các thiền sư thường
thử trí huệ của nhau và mức tiến của môn
đệ. Có những mẩu
chuyện điển h́nh như sau.
Tối khuya, thầy hỏi
một tṛ: “Cho ta xem sự hiểu
biết của ngươi.”
Người học tṛ
nghiêng ḿnh về phía thầy rồi vặn đèn lên.
Thầy bất b́nh mắng: “Ngươi chỉ hiểu
được thế thôi sao?”
Người học tṛ lại
nghiêng ḿnh rồi tắt đèn.
Thầy gật gù tán thưởng
tṛ ḿnh đă thật sự hiểu.
Câu chuyện thiền này rất
điển h́nh, dễ bắt chước, nhưng khó mà lừa
được một thiền sư có tŕnh độ. Thay v́ tán đồng, nếu thầy
hỏi thêm: “Đèn tắt hay
mở?” th́ đáp thế nào?
Thiền chỉ là nh́n thế
thôi. Nếu biết chỉ
nh́n thôi mà không suy tư hay toan tính ǵ về sự việc
ḿnh nh́n thấy th́ không có vấn đề ǵ cả. Khi một thiền sư muốn
thử ai th́ thật ra họ muốn thử khả
năng nh́n của người đó. (Khả năng là một tiếng
gây hiểu lầm v́ ai cũng có khả năng nh́n rồi.)
Một vị Phật chỉ
nh́n, nghĩa là không lầm tưởng nhận thức là
khái niệm. Nhận thức
thuần túy là ư thức mà không có đối tượng, là
cái ư thức người ta có khi kinh nghiệm “sự việc
như thế” trước khi tư tưởng, cảm
giác, sự phân biệt thành “tôi” và “các sự vật khác” ùa
vào.
“Chỉ nh́n thôi” là điểm phân biệt
một vị Phật với người thường. C̣n ở giai đoạn nhận
thức th́ mọi người đều nhận thức
giống nhau. Bắt đầu
có khác biệt là khi vị Phật đối phó thế nào
với những khái niệm đương nhiên sẽ phát
hiện. Họ không nhầm lẫn
nghĩ với thấy.
Họ không để khái niệm khống chế
nhận thức.
Một khi bị vướng mắc
trong tư tưởng th́ không thể nh́n rơ được. Người ta thường không
nhận định được điều này. Thay v́ cứ yên lặng mà chỉ
nh́n thôi th́ họ lại bận rộn t́m một tư
tưởng mới lạ hơn, rơ ràng hơn để lột
trần bí mật của vũ trụ. Nhưng vũ trụ có ôm giữ
bí mật nào đâu. Tất cả
được phơi bày ngay trước mắt. Sự thật là con nguời rất
quen thuộc với Thực Tại, nhưng chỉ v́ lạc
trong tư tưởng và khái niệm nên không nh́n thấy.
Trở lại câu hỏi: “Đèn tắt hay mở?” trong thế
giới hiện tượng chỉ có hai câu đáp rơ rệt
là “có” hay “không.” Nút đèn phải
được bật tắt hay bật mở. Có hai sự việc rơ ràng và khác biệt. Nếu tắt th́ không thể mở
và ngược lại. Tuy
nhiên, nh́n như thế là không biết nh́n toàn diện.
Không thể có “tắt” mà không có “mở.” Không thể có sự việc này mà
không có sự việc kia. Thực
vậy, trong tâm không thể nào chỉ có sự việc này
mà không có sự việc đối nghịch.
Trong sự nhận thức, tất cả
đều ở đó. Không có
phần nào bị bỏ quên.
Có đường lồi th́ cùng lúc cũng có
đường lơm. Vạn vật
đều như thế. Không
có vật nào đứng riêng lẻ, không có vật nào hiện
hữu một ḿnh. Vật nào
cũng có vật đối đăi.
Cho nên nhận thức là ư thức không
đối tượng v́ khi chỉ nh́n thôi th́ cái nh́n thấy
được là cái toàn diện, không phải là một vật
đặc biệt riêng rẽ nào cả. Nh́n đâu cũng chỉ có như
thế.
Sau đây là một câu hỏi thiền
khác thường được lấy làm thí dụ: “Tiếng vỗ của một bàn
tay như thế nào?”
Khi người ta nghĩ đến một
bàn tay đơn độc th́ thấy câu hỏi thật lạ
lùng. Muốn vỗ tay th́ phải
có hai bàn tay. Xét câu hỏi
như thế là dùng khái niệm theo thói thường. Khi nhận thức mà không dùng khái
niệm th́ một bàn tay không đơn độc lẻ
loi mà chứa đựng vạn vật. Một bàn tay vỗ là hai bàn tay vỗ,
là mười bàn tay vỗ.
Đó là âm thanh trước và sau khi hai bàn tay vỗ. Cũng là âm thanh trước và sau
khi một bàn tay vỗ.
Người ta thường có khái niệm
rằng âm thanh là âm thanh và yên lặng là yên lặng. Có và không có tiếng động là
hai sự kiện được phân biệt rơ ràng. Thật ra, họ coi đó là hai sự
kiện đối nghịch nhau.
Nhưng đó chỉ là khái niệm, là cái ǵ người
ta tưởng tượng, phân biệt, sắp xếp
trong đầu, không phải là Thực Tại.
Con người thường nghĩ phải
có tiếng động th́ mới được gọi là
tiếng động nhưng họ quên mất rằng phải
có yên tịnh th́ mới có được tiếng động. V́ có tiếng động nên mới
có yên tịnh. Nếu không có tiếng
động th́ làm sao mà có được yên lặng?
Trước khi chuông kêu th́ đă có tiếng
động ở đây rồi.
Sau khi chuông kêu, tiếng động vẫn ở
đây. Tiếng động
không chỉ là tiếng động mà c̣n là yên lặng nữa. Yên lặng là tiếng động. Sự kiện này con người
nhận thức được trước khi phân biệt
thành cái này và cái nọ, thành “tôi” và “tiếng động tôi
nghe thấy.”
Tiếng chuông gắn liền với mọi
sự vật đến trước và sau nó, và với mọi
vật đang phát hiện bây giờ, nghĩa là màng
tai, không khí dao động với âm ba, cây gậy để
đánh chuông, người đúc chuông, người nấu
kim loại, cái ḷ, những kim loại được nung chảy,
những ngôi sao đă tan biến từ lâu và đă tạo
thành kim loại. Loại bỏ
bất cứ một yếu tố nào th́ cũng sẽ
không tạo được tiếng chuông. Cho nên tiếng chuông không chỉ là
tiếng chuông mà là toàn thể vũ trụ.
Theo thói quen khái niệm hóa của con
người th́ sự vật tồn tại với thời
gian. Thế nên “tôi” của 50
năm trước đây, 5 năm trước hay 5 phút
trước đều là “tôi” của ngay bây giờ. Nhưng thế là sai lầm. 50 năm trước, người
mà tôi gọi là “tôi” chỉ là một đứa bé. Làm sao giống được
“tôi” của 5 phút trước đây được? Hơn nữa, t́m đâu ra
được “tôi” của 50 năm trước hay “tôi” của
5 phút trước? Có t́m thế
nào cũng không thể thấy đâu được thực
thể đó ở ngay đây trong giây phút này.
Mỗi tối bạn tưởng ḿnh
trở về căn nhà cũ, căn pḥng cũ. Nhưng sự thật là không hoàn
toàn đúng như vậy.
Đó chỉ là khái niệm của một kinh nghiệm
bạn trải qua mà thôi. Mỗi
tối hay đúng hơn trong mỗi khoảng khắc lại
có một kinh nghiệm khác, một “bạn” khác, một
căn nhà khác, một căn pḥng khác. Mỗi bữa ăn là một bữa
chưa hề ăn bao giờ trong một thế giới
không giống đêm qua hay vài khoảng khắc trước
đây.
Chỉ nh́n thấy là con người
buông bỏ ngay được mọi tư tưởng
đă có về mọi sự vật.
Như Tĩnh, thầy của
thiền sư Đạo Nguyên bên Trung Hoa, có khuyên Đạo
Nguyên trước khi về Nhật là sau này nên xa lánh chốn
phồn hoa đô thị mà về ở ẩn nơi hoang
dă. Đạo Nguyên đă vâng
theo và xây chùa Vĩnh B́nh ở một nơi hẻo lánh
đối với ngay cả thời bây giờ.
Thôn quê có một vẻ tĩnh
lặng, êm ả, không gây xáo trộn như nơi thành thị
cho nên ở đó tâm dễ lắng xuống mà định. Điều này khá hiển nhiên nên
người ta cho rằng đó là lư do duy nhất để
t́m nơi hoang vắng mà thiền.
Như thế là bỏ qua một điểm tinh tế
hơn nhiều.
Trước hết, thôn quê
không hẳn là một chốn luôn luôn yên tĩnh. Giông băo có thể đến xáo trộn
bất cứ lúc nào, đốn cây tàn phá rừng. Sự tĩnh lặng trong lúc thiền
không thể đem vào từ bên ngoài. Thiền nơi yên tĩnh có ích lợi,
nhất là lúc đầu khi thiền sinh dễ bị chia
trí bởi những tiếng động và sự việc xẩy
ra chung quanh. Nhưng cứ
trông chờ vào sự yên tĩnh bên ngoài này th́ sớm muộn
ǵ, dù là ở thành thị hay thôn quê, cũng sẽ có những
sự việc th́nh ĺnh đến xáo trộn.
Bạch Ẩn, một thiền
sư Nhật Bản ở thế kỷ thứ 18, đă
an được tâm bất luận hoàn cảnh của ông
ra sao. Một lần có một
phụ nữ trẻ trong làng vu khống ông là cha cái thai cô
đang mang. Khi cha mẹ cô này
đến chất vấn, Bạch Ẩn chỉ lẳng lặng
nói: “Thế à?” Ông b́nh thản mặc tiếng
tăm ḿnh bị bôi nhọ.
Khi đứa bé ra đời, ông bà ngoại nó liền
đem đến trao trả Bạch Ẩn để
nuôi. Ông chẳng phàn nàn liền
nhận nuôi đứa bé. Một
năm sau người mẹ đứa bé thú thật cha
đứa bé là một chàng trai trong làng. Đứa bé liền được
đ̣i lại. Bạch Ẩn
trao trả và chỉ nói: “Thế
à?”
Muốn có tâm b́nh thản và
uyển chuyển như Bạch Ẩn th́ không nên t́m những
đức tính ấy ở bên ngoài. Phải đem hết tâm sức mà
thiền, không phải chỉ khi nào ngồi thiền, mà suốt
đời nghĩa là phải sống hoàn toàn có ư thức. Katagiri thường nói thiền là
trọn vẹn 100 phần trăm hay là số không. Làm việc ǵ th́ phải mang hết
tâm ra mà làm, không th́ thôi đừng làm. Không nên làm miễn cưỡng, nửa
vời. Việc ḿnh làm phải
được thể hiện trong đời sống của
ḿnh, không th́ thôi. Có ư chí và thái
độ đó th́ có được tâm của Bạch Ẩn. Dù giông tố có thổi qua cuộc
đời th́ cũng sẽ qua khỏi nhờ vào sự
b́nh thản phát triển từ bên trong, không phải đem
từ bên ngoài vào. Bất cứ
lúc nào cũng có thể có những biến cố bi
thương không ngờ xảy đến, nhưng không cần
phải lẩn tránh v́ sẵn có thanh tịnh bên trong.
Thật ra Như Tĩnh
đă khuyên Đạo Nguyên về nơi tĩnh mịch mà
sống là để quan sát thiên nhiên. Trái hẳn với con người
luôn luôn muốn sửa đổi sự vật theo ư ḿnh,
thiên nhiên không có định ư nào cả bởi v́ vạn vật
đă nằm trong đó rồi th́ không cần phải hành
động hay phản động.
Cho nên cứ xem xét thiên nhiên mà t́m hiểu và noi
gương.
Con người thường
cho rằng có một thực thể (Thượng Đế
chẳng hạn) đă tạo ra và cai quản thế giới
này. Rồi họ gán cho thực
thể này mọi đặc tính của con người,
như cũng có ham muốn khát vọng. Họ hoàn toàn không nhận thấy
rằng họ đă phóng ra bên ngoài những quan niệm làm
che lấp Thực Tại, rồi lại cho rằng những
khái niệm này là thật.
Sở dĩ con người
có quyết tâm và ư định là v́ muốn giải thích
động cơ thúc đẩy hành vi của ḿnh, muốn
bảo vệ bản ngă nhỏ mọn và v́ đă đi quá
xa Thực Tại rồi. Họ
cảm thấy xa ĺa tất cả nên muốn tu sửa lại
hoàn cảnh, nhưng có làm ǵ th́ lại chỉ gây thêm khó
khăn và bất măn.
Người ta vừa muốn
bảo vệ vừa muốn chiều chuộng cái “tôi” nên
cứ hết ham muốn lại chán ghét. Tất cả chỉ là ảo
tưởng trong tâm. Thật
đáng tiếc khi người ta không nhận định
được rằng muốn thoát khỏi phiền năo
đó th́ chỉ cần chú ư nh́n chứ không phải sửa
đổi cái ǵ ở bên ngoài cả.
Tâm sáng suốt biết nh́n
rơ như vậy được gọi là tâm giác ngộ. Muốn có tâm đó th́ không thể
ôm giữ căn cước riêng của ḿnh nữa. Tâm đó lúc nào cũng chứa
đựng vạn vật.
Đó là tâm toàn diện, là Thực Tại.
Không có ǵ ở ngoài tâm. Cho nên khác với tâm người
chứa toàn ham muốn và hận thù, tâm toàn diện không
thiên vị về cái ǵ mà cũng không tránh cái ǵ. Nó không có mục đích ǵ. Khác với khái niệm con người
tạo ra về Thượng Đế, tâm toàn diện - tức
là Thực Tế - không có ư muốn nào cả.
Đối với tâm
người, sự vật trong thế giới của h́nh
thể, phân biệt và chia cách, rất đáng ngại. Nhưng, như Bạch Ẩn
khuyên nhủ, chỉ nên nh́n thế thôi mà thấy rằng
không cần nắm giữ hay trốn chạy ǵ cả.
Đức Phật nói Ngài
chỉ dạy có hai điều:
một là dukkha, có thể dịch là thay đổi,
khổ, mất mát, phiền năo, hoang mang và hai là thoát khổ. Một khi c̣n bám víu vào bản ngă
th́ c̣n dukkha. Xét cho kỹ
th́ ngay cả trong sự vui sướng cũng có khổ bởi
v́ khi sự vật biến đổi th́ không c̣n vui sướng
nữa.
Cho nên bản chất của
đời người là khổ, là trói buộc. Đức Phật chỉ cho thấy
sự trói buộc ấy và con đường giải
thoát. Để giải thoát chỉ
cần nhận định được rằng v́ mê lầm
nên con người mới tự trói buộc ḿnh bằng
tư tưởng. Ngài giảng
giải tỉ mỉ cho thấy tiến tŕnh con người
bị vướng mắc trong vô vàn sự vật, hoàn cảnh,
các mối liên hệ để mà tránh phiền năo, kể cả
cảm giác khó chịu là không hiểu ḿnh sống để
làm ǵ. Tiến xa hơn nữa,
Đức Phật c̣n chỉ phương cách để
thoát khỏi ngay cả sự giác ngộ.
Con người rất hoang
mang về vấn đề giải thoát. Họ đưa ra rất nhiều
khái niệm nhưng chúng cũng chỉ là những h́nh thức
trói buộc, chính v́ chúng chỉ là những tư tưởng
thay thế Thực Tại.
Người ta khó nếm được mùi vị giác
ngộ v́ càng nghĩ đến, càng đeo đuổi, càng
muốn đạt được th́ càng lùi bước và
càng trói buộc ḿnh thêm. Càng muốn
giải thoát lại càng tiếp tục hoang mang và đau khổ.
Có người cho rằng
Đức Phật khuyên nên đầu hàng và cam chịu những
khó khăn ở đời.
Thân phận con người luôn luôn là phải chịu
khó khăn cho nên chẳng làm được ǵ hơn là cố
gắng hết ḿnh cho qua đi.
Thật ra, Đức Phật không hề nói như vậy. Ngài cũng đă từng nói là
người ta sẽ hiểu lầm lời ngài. “Ta gọi là giải thoát nhưng
thế gian gọi là cam chịu.”
Có nhiều người khác
lại cho rằng Phật giáo nhiều lắm th́ cũng chỉ
đưa đến sự tĩnh lặng bên trong. Mục đích chỉ là t́m
được sự an b́nh trong tâm. Đức Phật không ám chỉ
đến một kinh nghiệm hạn hẹp như vậy. Ngài chỉ dẫn cách để
tâm được thật sự giải thoát trong mọi
hoàn cảnh chứ không phải chỉ an tịnh hay cam chịu
mà thôi.
C̣n chưa nh́n thấy th́
làm ǵ chăng nữa, ngay cả học lời Phật dạy,
cũng chỉ là tự trói buộc trong tâm. Chính từ trong tâm mà con người
mới có khả năng thấy và hiểu được
thế nào là giải thoát.
Để được
giải thoát không phải hy sinh ǵ cả. V́ sợ phải buông bỏ những
sự vật nên người ta mới bám chặt lấy
chúng, nhưng bám víu th́ chỉ đau khổ chứ chẳng
được ǵ. Làm sao ôm giữ
được của cải, tư tưởng, t́nh cảm,
kỷ niệm, cuộc đời, những người
ḿnh thương mến? Không sự
vật nào tồn tại. Vạn
vật biến đổi. Cho
nên không có ǵ để hy sinh th́ mới được giác
ngộ bởi v́ con người có bao giờ sở hữu
vật ǵ đâu? Họ chỉ
tưởng họ có mà thôi.
Chỉ v́ có ảo tưởng
rằng chiếm hữu được sự vật th́ sẽ
hết đau khổ, phiền năo nên mới sợ mất
chúng. Nhưng rồi chúng cũng
sẽ qua đi, bất luận có níu kéo hay không. Nếu không bám víu th́ sẽ thấy
giải thoát ngay, như Đức Phật đă dạy.
Giải thoát là nh́n thấy
rành mạch sự việc diễn biến trong từng khoảng
khắc, là thấy vạn vật đều phù du. Nếu nghe đáng sợ th́ chỉ
v́ c̣n bám víu lấy bản ngă, c̣n thấy ḿnh và người
xa cách.
Không có ǵ mới lạ cả. Từ bao giờ con người vẫn
ở trong t́nh trạng này nên chẳng có ǵ để sợ,
để hy sinh. Có những sự
việc mà trong sự mê lầm người ta coi là quan trọng
sẽ mất đi. Một
khi đă nh́n rơ rồi th́ tự nhiên chúng cũng biến
đi. Cũng chẳng hề
ǵ.
Cũng giống như
người ta sợ ma quỷ.
C̣n sợ th́ c̣n lo đề pḥng. Đêm đến th́ lo cửa
đóng then cài, đọc kinh cầu nguyện, hay để
đèn sáng để ma quỷ khỏi đến. Cứ theo thói quen làm thế mà ma
quỷ không đến thật nên không dám bỏ. Có ai đến đảo lộn
thói quen này mà tối mở toang cửa th́ sẽ bị coi
là điên rồ hay được khen là can đảm. Dĩ nhiên người này chẳng
điên mà cũng chẳng can đảm. Đêm có mở cửa mà chẳng
thấy ma quỷ đến th́ mới thấy rơ rằng
ḿnh đă tự trói buộc ḿnh trong sợ hăi, ham muốn
được an toàn, tất cả đều tự ḿnh
gây nên. Không cần phải hy
sinh ǵ cả mới được thảnh thơi. Tự nhiên sẽ thấy bao nhiêu
cố gắng trước đây để chặn ma quỷ
thật là lố bịch.
Giác ngộ cũng không phải
là cam chịu. Nói đến Thực
Tại th́ không có sự lựa chọn. Con người đă ở trong
đó rồi. Có chấp nhận
hay không th́ Thực Tại vẫn là Thực Tại. Không làm ǵ được. Có la hét rên xiết th́ cũng thế
thôi, chẳng ích ǵ.
Điều Đức Phật
dạy c̣n vi diệu và thâm thúy hơn là cam chịu v́ cam chịu
là khi tưởng ḿnh c̣n xa ĺa c̣n đơn độc. Cam chịu chỉ có trong thế
giới của bản ngă với những khái niệm về
xa cách.
Một khi thấy tường
tận sự việc đang xảy ra không ở bên ngoài xa
hẳn con người th́ thấy ngay rằng không có ǵ
để nhận chịu, cũng chẳng có “cái tôi” nào
để cam chịu.
Giải thoát vượt lên
trên mọi ư niệm về nhận chịu. Không có ai để giải thoát, cũng
không có ǵ để thoát khỏi.
Nh́n thấy được là tự do.
Cốt tủy của thiền
là biết được sự giải thoát. Con người cứ tưởng
ḿnh tự do, nhưng phần đông đều bị trói
buộc bởi những tư tưởng, tin tưởng,
khái niệm cho nên lại càng bị giam cầm hơn cả
người bị cầm tù trong khám. Tuy nhiên, có khác là chỉ có ḿnh tự
đầy ải ḿnh chứ không một ai khác.
Người ta thường
bước vào thiền bằng những đường lối
càng trói buộc họ thêm. Họ
nôn nóng được giải thoát, lại sẵn có nhiều
quan niệm về giải thoát, rồi cầu khẩn thầy
dạy phương cách để chóng được giải
thoát. Nhưng thiền không dạy
người ta phương pháp để được tự
do v́ ngay từ đầu họ đă tự do rồi. Sở dĩ họ không biết là
v́ đă tự đeo cho ḿnh nhiều xiềng xích quá: bằng trí thức hay bằng t́nh
cảm. Thi hào Ba Tiêu diễn tả
sự trói buộc này trong một bài cú tả tâm trạng
ông khi nghe tiếng hót hoài cảm của chim hototogisu, một
loại chim cu cu nổi tiếng v́ tiếng hót trầm buồn.
Tôi đang ở
Kyoto
Nhưng lắng nghe tiếng
hót Hototogisu
Th́ lại trạnh
nhớ đến Kyoto.
Ba Tiêu đang ở thành phố
cổ kính Kyoto mà nghe được tiếng hót của chim
Hototogisu th́ không thể cầm ḷng mà tưởng nhớ
đến thành phố này. Nhớ
Kyoto đây là nhớ đến khái niệm về thành phố
này, dù ông đang ở ngay đấy. Nhớ nhung như thế là một
cái thú đau thương. Vẫn
là đau khổ nên vẫn là ảo tưởng.
Vậy th́ làm sao mà sống
không có ảo tưởng?
Không thể được. C̣n phân biệt ḿnh và người
th́ c̣n sống trong biển mê.
Trong thiền tông, người ta gọi là sống
trong “nước bùn.” Ảo
tưởng không phải là sai lầm. Không thiền để loại trừ
ảo tưởng. Nước
bùn là nước bùn. Muốn tẩy
trừ nó th́ chỉ càng khuấy nó đục thêm lên.
Các vị Phật không t́m
cách loại trừ mê lầm.
Họ chỉ nh́n cho rơ để không bị nó phỉnh
gạt. Không cần phải diệt
trừ mê lầm mới giác ngộ. Cũng không phải giác ngộ rồi
th́ mới diệt trừ được mê lầm. Hiểu như thế là càng lún sâu
trong ảo tưởng. Con
người không phải đạt giác ngộ v́ vốn
đă giác ngộ rồi. Không
bao giờ xa cách nó. Chỉ cần
nh́n thấy là như thế th́ đă tự do rồi.
Ở thế kỷ thứ
9, thiền sư Lâm Tế bên Trung Hoa, có nói về giác ngộ
như thế này:
Lúc đến gập thầy có những thiền sinh
mang đầy xiềng xích. Thầy
lại đeo thêm lên người họ một sợi nữa. Ấy vậy mà họ vẫn vui
mừng v́ chẳng biết phân biệt việc này với
việc khác. Thế gọi là
khách nh́n khách.
Nhiều người đến
gập thiền sư người quấn đầy xiềng
xích của khái niệm và tư tưởng, mong mỏi
được thầy cho thêm nữa. Cho nên gập được thầy
nào ban cho cái ǵ th́ mừng rỡ lắm. Nhưng như thế lại là
bám víu. Những thiền sư
thuyết giảng bằng những lời lẽ khó hiểu
không được nhiều người ưa thích v́ họ
chỉ chấp nhận những điều ǵ dễ hiểu,
mà họ nắm giữ được, đồng hóa với
và gọi là của ḿnh.
Giáo lư thiền chỉ đến
một điều khá vi diệu về hiện tại. Sự vật nh́n thấy
được trong giây phút này có khả năng giải
thoát con người nhưng nó không phải là vật ǵ
để nắm giữ hay để khái niệm hóa.
Có cảm tưởng thiền
đem lại cho ḿnh một điều ǵ th́ chỉ là trói
buộc, không phải giải thoát.
Không có ǵ để đạt. Thế chỉ là đeo vào ḿnh thêm
một cái xiềng, thêm một sợi xích, khiến ḿnh thêm
bất măn và thúc đẩy ḿnh đi t́m thú vui mới. Vẫn là phiền năo cũ, không
có ǵ mới. Vẫn là xiềng
xích nhưng là kiểu mới, làm bằng vật liệu
khác trước, có màu sắc cũng khác. Rồi người ta cũng sẽ
chán nó như đă chán mọi vật khác trước
đây.
Không có ǵ để t́m hiểu
về giác ngộ. Nó không giải
thích được Thực Tại th́ t́m hiểu cái ǵ
đây? Hơn nữa, ảo
tưởng là như thế, là cứ đi t́m hiểu hết
chuyện này đến chuyện khác, cứ lập khái niệm
về mọi sự việc.
Thiền là để trở
về với sự việc như thế này, là hiện hữu,
là nhận thấy rằng ḿnh cứ măi kể chuyện cho
ḿnh nghe, cứ một ḿnh giải thích mọi sự việc. Thiền không đem lại ǵ cả. Nếu nghĩ là có th́ chỉ toàn
là ảo tưởng.
Lâm Tế nói: “Thế gọi là một người
khách nh́n một người khách khác.” Nghĩa là người ta không quan
tâm đến sự việc đang xảy ra mà chỉ
để ư đến có làm ǵ được về sự
việc đó không. Cho nên mới
bỏ quên kinh nghiệm của giây phút này mà trong thiền
tông người ta gọi là chủ nhân. Người ta hoàn toàn không biết
rằng Thực Tại và con người là một.
Sự thật được
truyền bá một cách trực tiếp, không cần đến
lời nói. Con người
đă giác ngộ rồi nhưng v́ không ư thức nên cứ
măi tiếp tục nghĩ ḿnh là một thực thể riêng
rẽ, cô lập. Có từ bỏ
được tư tưởng trên th́ mới thấy
ḿnh đă là chủ nhà trong chủ nhà, th́ mọi vấn
đề liên quan đến trói buộc và giải thoát sẽ
không c̣n nữa.
Thanh Viễn Phật Nhăn, một
thiền sư Trung Hoa thời xưa, đă nhận xét
như sau, “Chỉ được gọi là thiền sinh khi
đă biết nh́n trước khi có danh sắc, trước
khi có tư tưởng. Nhờ
danh sắc người ta mới nhận được ra
sự vật. Đó là những
khái niệm, tư tưởng, và giá trị gán cho sự vật
khiến chúng trở thành có thật. Sức nóng là biểu hiệu của
lửa. Ánh sáng và khói cũng vậy. Đối với con người,
danh sắc c̣n có ư nghĩa nhiều hơn nữa. Thật ra, chúng cũng chỉ là
những loại ảo tưởng. Con người tưởng chúng
thể hiện Thực Tại, nhưng chúng đều chỉ
do tâm tạo ra. Cho nên bao nhiêu
danh sắc chỉ là những tư tưởng, những
câu chuyện con người tự kể lại cho ḿnh nghe
từ kinh nghiệm trực tiếp.
Danh sắc không thể giúp
con người chứng nghiệm được Thực Tại
v́ Thực Tại xảy ra trước khi có tư tưởng,
có giải thích, trước khi sự việc cô đọng
lại, trước khi những sự vật được
phân biệt.
Thanh Viễn Phật Nhăn cũng
có nói, “Muốn thiền th́ phải từ bỏ tư
tưởng.” Như thế,
không có nghĩa là ông khuyên người ta ngừng suy nghĩ
mà là không nên coi đối tượng của tư tưởng
là Thực Tại. Thay v́ bị
lạc trong những tư tưởng th́ chỉ cần ngừng
không tin chúng có thật.
Như trong kinh Kim
Cương đă viết, Thanh Viễn Phật Nhăn nói rằng
không thể nhận ra Phật bằng danh sắc. Từ ngữ kinh này dùng để
chỉ Phật là “Như Lai”, một tiếng Phạn ghép
có nghĩa là “đến và đi, thế đấy”, nghĩa
là đến và đi như thể không có ǵ thật sự
đến hay đi. Như Lai
dùng ở đây ám chỉ Thực Tại, kinh nghiệm trực
tiếp ngay trước mắt.
Như Lai mô tả sự vật như thế tức
là không có ǵ đặc biệt v́ vạn vật biến chuyển
không ngừng. Đó là kinh nghiệm
trong lúc này, là sự việc nhận thức được
trước khi tư tưởng phát sinh trong tâm, trước
khi danh sắc xuất hiện.
Việc phải làm trong giây
phút này là chú ư xem sự việc diễn tiến ra sao trước
khi bàn tán về nó. Vấn
đề là phải nhận định rằng tâm tạo
ra hằng hà thế giới phù du tan biến nhanh như khói
hay sương mù. Có thấy
như thế th́ mới thức tỉnh.
Nhưng tiếc thay, phần
đông thiên hạ không để những tư tưởng,
tin tưởng, quan niệm thân yêu của họ tan biến
đi. Họ cũng không hề
biết rằng chúng có thể tan đi được v́ họ
đă ôm ấp chúng chặt quá nên không thể nhận ra
được rằng đấy chỉ là những tư
tưởng.
Con người nào ngờ
ḿnh cứ bám vào những vật chỉ đem đến
cho ḿnh phiền năo. Trong khi
đó th́ cứ bác bỏ tự do v́ tin rằng muốn
được giải thoát th́ phải hy sinh cái ǵ rất
quư giá.
“Thiền đ̣i hỏi thiền
sinh phải biết không níu kéo tư tưởng.” Một khi nhận thức
được rằng những đối tượng của
tư tưởng không thật, rằng chúng chỉ như
trong mộng, th́ sẽ không c̣n bám víu vào tư tưởng.
Thanh Viễn Phật Nhăn nhắc
nhở rằng những danh sắc nêu lên chỉ là những
mô h́nh của thế giới chứ không phải là Thực
Tại, không thay thế được Thực Tại. Cho nên những đối tượng
của tâm, kể cả bản ngă và khái niệm về thế
giới bên ngoài, đều không thật.
Giáo lư anatta (vô ngă) của
Đức Phật là như thế, nghĩa là vạn vật
đều không có bản ngă.
Điều này chỉ có thể nh́n thấy trực tiếp
chứ không thể hiểu được v́ nó không phải
là một tư tưởng mà là kinh nghiệm thật.
Trong thiền tông cũng
như trong Phật giáo nói chung, vấn đề là Tỉnh
Thức. Phải nh́n sự việc
đang diễn biến thay v́ quan tâm đến điều
ḿnh đang nghĩ.
Không nên để kinh nghiệm
gây hoang mang, để xúc cảm, tư tưởng, ưa
thích xô đẩy. Tuy vẫn
có t́nh cảm và tư tưởng nhưng không để
chúng chế ngự ḿnh.
Thiền là quan tâm đến
giây phút hiện tại, để thấy rằng nó không có
ǵ đặc biệt mà phải bám víu vào. Chỉ cần nh́n thấy tâm thiên
vị về đối tượng của dục vọng
hay lẩn tránh đối tượng ḿnh ghét bỏ là biết
ngay ḿnh đă bị lạc.
Làm sao ngăn cho tâm khỏi
thiên vị? Nhất định
không phải nhờ cố gắng rồi. Ép tâm không thiên vị th́ cũng là
thiên vị rồi. Chỉ cần
nhận thức rằng tâm ḿnh đang thiên vị th́ tự
nó không thiên vị nữa.
Bị lạc trong các danh sắc,
chay theo tư tưởng khi chúng bắt đầu phát hiện. Đó là những ví dụ về
tâm thiên vị. Khi tâm ổn
định th́ những trạng thái này tự động
tan ră. C̣n lại là Thực Tại
lúc nào cũng vẫn ở đây.
Vấn đề là phải nh́n.
Ying-an, một thiền
sư Trung Hoa thời xưa nói với môn đệ như
sau, “Chỉ đi lướt qua th́ không ai bắt giữ
ḿnh lại được, cũng chẳng ai gọi ḿnh lại
được.”
Người ta có thể nghĩ
từ lời nói trên rằng thiền có một chướng
ngại mà họ phải vượt qua, hay một mục
tiêu họ phải đạt tới. Một khi vượt qua rồi
hay đạt tới rồi th́ sẽ thành công, sẽ giác
ngộ, sẽ an nhiên tự tại, sẽ không ai đụng
chạm được, sẽ hoàn toàn tự do.
Nghĩ như thế là sai
lầm, là dùng tâm phàm mà suy đoán.
Cứ tưởng tự do là làm bất cứ sự
việc ǵ hoàn toàn theo ư ḿnh, không ai được can thiệp
vào, như những vị thành niên thường nghĩ. Nhiều người đă trưởng
thành cũng có những ư nghĩ tương tự về
tôn giáo, nghề nghiệp hay bổn phận công dân. Nh́n qua lăng kính Phật giáo th́
“không ai có quyền sai bảo tôi làm việc ǵ” chỉ thể
hiện sự trói buộc chứ không phải tự do.
V́ Đức Phật đă
nói: “Ta gọi là giải thoát
th́ thế gian gọi là cam chịu”
nên có người nh́n Phật giáo như là đầu
hàng hay hy sinh làm tấm thảm cho người ta đạp
lên thay v́ đối diện thực tại. Những người có ảo
tưởng này có thể nói:
“Sức mạnh bên ngoài quá lớn không thể cưỡng
lại được. Nên hoàn
toàn đầu hàng th́ sẽ giác ngộ.”
Nhưng Đức Phật
không hề nói như vậy về vấn đề giác ngộ. Nghĩ như vậy là trói buộc,
là lối suy nghĩ thường t́nh của con người. Sở dĩ người ta cho rằng
lời Đức Phật dạy có vẻ như đầu
hàng cam chịu là bởi v́ họ c̣n nghĩ có “cái tôi” “ở
đây” và cái ǵ khác “ở ngoài đó.” Nhưng Đức Phật đă
có nói rơ rằng không có thế gian nào ngoài con người cả,
nghĩa là con người và vạn vật chỉ là một. Giải thoát là nh́n thấy rằng
không có thế gian nào để chấp nhận và cũng
không có ai để đầu hàng.
Đức Phật chỉ
nói đến kinh nghiệm hiện tại. Xét cho kỹ th́ chỉ thấy có
sự việc tiến triển liên tục ngay trong lúc này và
gắn liền với vạn vật “bên ngoài.” Qua khung cửa, bạn nghe thấy
tiếng xe chạy và nghĩ, “Có một chiếc xe chạy
ngoài đường.” Nhưng
tiếng động ở đâu ra? Nó có ở ngoài đường
không? Hay nó ở trong tai bạn,
trong óc bạn? Hay nó ở trong
sự rung động của không khí giữa bạn “ở
đây” và con đường “ở ngoài đó”? Những sự việc trên xẩy
ra ở đâu?
Phần đông con người
đều nghĩ, “Bên ngoài có những sự vật. C̣n ta ở trong này xa cách hẳn những
sự vật ở bên ngoài đó.”
Chính v́ có những tư tưởng như thế nên
mới bị thế giới bên ngoài xô đẩy hay nói
đúng hơn th́ mới bị những ư nghĩ và cảm
xúc của ḿnh trói buộc.
Có nghiên cứu cẩn thận
kinh nghiệm hiện tại th́ có thể nhận thức rằng
không có “ta” tách rời ra khỏi “vạn vật bên
ngoài.” Ying-an đă gọi lối
nh́n như thế là “đi lướt qua.” Khi ông nói, “Không ai có thể bắt
giữ lại được, hay gọi lại được,” Ying-an công nhận không có ai hay cái
ǵ để bắt giữ hay
gọi lại. Cũng giống
như không thể t́m ra được cái tiếng động
bên ngoài đó từ đâu ra, v́ chẳng có vật ǵ ở
đâu cả. Cứ tiếp tục
truy xét kinh nghiệm trực tiếp th́ sẽ thấy rằng
chẳng bao giờ có thể bắt giữ được
cái ǵ, ngay cả chính con người mà ḿnh tưởng là
ḿnh.
Một khi đă nh́n tường
tận giây phút này là như thế th́ không c̣n nuôi tư
tưởng có một vũ trụ gồm cái tôi cô lập ở
“bên trong” nh́n ra vạn vật “ở bên ngoài.” Cũng không c̣n thấy cần phải
tự bảo vệ chống lại “bên ngoài” nữa. Thế mới là tự do, là giác
ngộ, khác hẳn với thái độ cam chịu, khác hẳn
với tư tưởng muốn làm ǵ th́ làm không ai có quyền
xen vào.
Ngay bây giờ, bạn
đă có khả năng nh́n sự thật rồi. Bất luận là Phật hay ai
chăng nữa, không ai có thể cho bạn khả năng
đó được bởi v́ bạn đă sẵn có nó rồi
th́ cần ǵ ai cho nữa?
Không ai bắt giữ bạn
được. Cũng chẳng
ai gọi lại được.
Không ai trói buộc được, th́ cũng chẳng
ai bịt mắt bạn được.
Khi mới tập thiền,
người ta thường cho rằng ḿnh đă biết thế
nào là thiền. Họ đă chẳng
theo nhiều khóa học rồi là ǵ, đă chẳng đọc
qua hết các lời chỉ dẫn là ǵ, và cũng đă chẳng
thiền hàng ngày rồi là ǵ?
Ấy vậy, nhưng cũng
phải một thời gian sau mới thật sự hiểu
ḿnh làm những ǵ trong lúc thiền.
Thoạt đầu các thầy dạy thiền thường
nói nhiều điều nghịch lư khiến người tập
thiền không thể hiểu.
Chẳng hạn họ nói thiền không ích lợi ǵ,
thiền măi cũng chẳng đi đến đâu. Nhưng chính họ th́ mỗi ngày
lại ngồi thiền rất lâu.
Không phải những thiền sư này muốn nói bóng
gió ǵ mà trái lại họ rất thành thật và nói rất
đúng, nhưng cũng phải có thời gian thiền sinh
mới hiểu ra.
Một trong những cái bẫy
người ta mắc phải là gọi thiền là “ngồi
thiền.” Gọi như thế
là sai v́ làm cho người ta hiểu lầm là muốn thiền
th́ phải ngồi xuống. Sở
dĩ có sự kiện này là v́ một phần từ ngữ
“thiền” được dịch từ Nhật ngữ
“zazen” có nghĩa là “ngồi thiền.” Một phần khác, để ám
chỉ thiền người ta cũng dùng từ ngữ Nhật
“shikantaza”, có nghĩa là “chỉ ngồi.”
Điểm thiếu sót là bỏ
qua tiếng “chỉ”. Chỉ rửa
chén, chỉ chơi bóng, chỉ lái xe, chỉ nh́n, chỉ ngồi. Những hành động này đều
là thuần túy thiền. Chính
thiền sư nổi tiếng Đạo Nguyên cũng
đề cập đến điểm này khi ông viết rằng
sanzen – thiền hiểu theo đúng nghĩa nhất – “chẳng
liên quan ǵ đến ngồi hay nằm.”
Thiền ở đâu cũng
được, không cần phải chạy đi t́m gối
để ngồi. Thật vậy
ở nhiều thiền đường, người ta
thường thiền trong khi làm việc, đi, ăn, hay
ngồi. Thiền chỉ là tập
trung tâm ư. Trong khi lái xe, trong khi
nói chuyện, trong khi làm bánh hay viết thư, th́ vẫn có
thể tập trung tư tưởng. Bất luận họat động
ǵ, hiểu được thiền rồi th́ có thể áp dụng
trong mọi sinh hoạt đời sống 24 trên 24.
Không thể lúc nào cũng hoàn
toàn chú ư được như vậy. Khó có ai mà làm được. Điểm quan trọng là khi nào
thấy ḿnh chia trí không chú tâm vào sự việc đang xảy
ra ở ngay đây trong lúc này th́ liền kéo sự chú ư về. Cứ mỗi khi tâm sao lăng th́ lại
đưa nó về. Cứ làm
như thế ở bất cứ nơi nào.
Thế là tập thiền,
tập lúc nào cũng trở về hiện hữu trong giây
phút này, từng hơi thở một, từng ngày một. Tập như thế không dễ. Trong đời sống hàng ngày
thường có nhiều việc làm chia trí. Chính con người tạo ra
chúng, bắt chước máy móc làm nhiều chuyện một
lúc, cho rằng như thế là gia tăng năng xuất. Nhưng như thế chỉ làm
tâm phân tán. Thiền th́ trái
ngược hẳn.
Người ta thường
cho rằng điều quan trọng nhất là ngồi thiền
được trong bao lâu, nhưng không phải vậy. Tập thiền cần nên nhớ
ba yếu tố quan trọng nhất là:
1.
Nên thiền đều đặn.
2.
Nên thiền chung với người khác.
3.
Không nên phán đoán ḿnh đă thiền ra sao.
Chẳng
nên tập thiền nếu chỉ thỉnh thoảng mới
thiền, khi nào có hứng. Cũng
giống như luộc khoai mà chỉ thỉnh thoảng mới
bắc nồi lên bếp đun trong vài giây rồi lại tắt
lửa đi.
Thiền đều đặn
là điều cần thiết.
Chỉ riêng điểm này thôi cũng đủ giúp
thiền sinh có một thái độ thích hợp trong lối
cư xử. Nên định sẵn
giờ giấc nhất định mà thiền rồi cứ
thế mà kiên tŕ làm. Thiền
cùng với người khác cũng rất có ích, nhất là
nếu bạn muốn thiền lâu dài. Các thiền sinh khuyến khích lẫn
nhau và giúp nhau khỏi rơi vào thế giới riêng của
ḿnh.
Sau hết, không thể nào
hiện hữu khi tâm c̣n nhiều phê phán. Dần dà thiền sinh tập hiện
hữu mà không c̣n b́nh luận về những sự việc
đang diễn tiến.
Trước hết là không b́nh phẩm về việc
ḿnh thiền ra sao. Không phê b́nh
ḿnh th́ cũng sẽ không phê b́nh người. C̣n chỉ trích th́ c̣n không nh́n thấy
được.
Một khi tập ngồi
thiền th́ giảm thiểu sinh hoạt cho đến khi
chỉ c̣n chăm chú đến việc ngồi thiền và
thở. Dĩ nhiên sẽ chẳng
kéo dài được sự chú ư. Sớm muộn ǵ th́ thiền
sinh cũng sẽ có tư tưởng. Không hề ǵ. Ngồi yên một chỗ không làm
ǵ th́ tâm sẽ lôi ra nhiều sự việc. Đó là điều b́nh thường. Chỉ không nên để ḿnh bị
vướng mắc vào.
Chăm chú quan sát rồi để tư tưởng
phân tán đi.
Không làm thế được
th́ cũng không hề ǵ. Một
khi không níu kéo chúng lại th́ tư tưởng tự chúng rồi
cũng tản mác đi. Dần
dà thiền sinh tập thói quen mỗi khi có tư tưởng
phát hiện th́ không bàn luận nữa. Chỉ có như thế mới
tiêu trừ được phiền năo và bất măn, mới
thấy rằng con người có thể thấy và chứng
nghiệm được tự do.
Làm người ai cũng có
tâm khích động. Trong ḷng
luôn luôn rên la về những chuyện không được vừa
ư. Điều mơ ước
th́ không đạt được trong khi điều muốn
tránh th́ cứ tới tấp xảy ra.
Cũng đôi khi có cách chiều
đăi cái tâm khó tính đó nhưng cần rất nhiều
công phu và thời gian. Con
người không thích cái tâm khích động nên t́m cách thay
đổi môi trường chung quanh tưởng rằng
như thế th́ sẽ được măn nguyện. Làm như thể nếu biết dự
trù cho khéo th́ mọi sự việc sẽ xảy ra một
cách hoàn hảo, th́ tâm sẽ lắng xuống và người
ta sẽ an nhàn thảnh thơi.
Tuy nhiên chỉ riêng sự
kiện con người sống chung với nhau cũng
đủ cho thấy sự việc không luôn luôn xảy ra
theo ư muốn. Sớm muộn
ǵ cũng có xung đột, không bằng cách này cũng cách
khác. Một khi c̣n nghĩ vấn
đề ở bên ngoài, th́ bất luận có làm ǵ th́ rồi
cũng vẫn bất măn. V́
không tránh được bất măn nên phải biết nhận
ra rằng vấn đề không ở bên ngoài. Có khuấy động đến
đâu th́ thế giới kia cũng chẳng quan tâm đến
mà cứ tiếp tục trao cho ḿnh những chuyện bực
ḿnh.
Thiền không phải chỉ
để tập buông bỏ cái tâm ồn ào bất măn
đó mà để quên nó đi.
Nó c̣n đó hay không th́ cũng không nên quan tâm đến. Chỉ cần dẹp bỏ một
bên những rắc rối do ḿnh tưởng tượng
ra mà chú tâm vào sự việc đang diễn biến tại
ngay đây trong lúc này.
Trong lúc ngồi thiền v́
hoạt động giới hạn nên ít có chuyện xảy
ra. Thiền giả có thể chăm
chú đối diện và quan sát cái tâm đ̣i hỏi kia. Khi ngồi thiền là lúc cái tâm
không muốn buồn phiền, giận dữ, bất măn
phát hiện. Mặt khác, nếu
trong tâm c̣n nhiều bất măn th́ khi ngồi thiền nó càng
hiện ra rơ rệt hơn.
Đây là cơ hội tốt để đem nó ra mà
xem xét rồi loại bỏ đi.
Ở thế kỷ thứ
9 bên Trung Hoa có người tên Ngưỡng Sơn đến
hỏi thầy của ḿnh là thiền sư Quy Sơn: “Khi gập
phải cả ngàn chuyện xảy đến một lúc
th́ phải làm thế nào?” Quy
Sơn đáp: “Xanh khác vàng, dài
khác ngắn. Mỗi sự việc
đều có trật tự riêng.
Tại sao phải can thiệp vào?”
Tuy thế nhưng phần
đông thiên hạ cứ tin họ phải xen vào, phải
làm ǵ, phải sửa đổi cái ǵ th́ mới được. Có biết đâu rằng sự việc
nào cũng chỉ là do tâm tưởng tượng ra, c̣n thực
tại th́ hoàn toàn biến chuyển trong từng khoảng
khắc một.
Con người sống ở
đời như thể họ có thể sắp đặt
được mọi sự việc để mưu cầu
hạnh phúc, để đạt được điều
mong ước, để thay đổi được cả
thế giới chung quanh.
Nhưng không thể thực hiện được
điều này. Nếu có th́ cũng
chẳng được lâu bền.
Sự việc thay đổi và con người lại
chạy đi đeo đuổi việc khác, ḥng mong cải
thiện hoàn cảnh của ḿnh.
Cứ như thế mà chu tŕnh ảo tưởng lại
quay một ṿng mới.
Có xét kỹ lưỡng th́
nhận ra ngay lối sống này chỉ đem lại bất
măn. Cuộc đời thật
ra rất êm đềm trước khi người ta nhất
định phải thay đổi nó.
Sẽ có người biện
luận rằng ngày nay con người sống an lạc
hơn xưa nhiều. Muốn
chứng minh sự kiện này đúng hay sai th́ chỉ là muốn
giải thích hay t́m một giải đáp. Như vậy th́ đă có vấn
đề ngay từ đầu rồi. Nói rằng con người ngày nay
an lạc hơn ám chỉ rằng câu chuyện đă kết
thúc và con người đă đến một điểm tĩnh. Trên thực tế, làm ǵ có điểm
đó. Những câu chuyện thần
thoại hoang đường thường kết thúc ở
một điểm rất vui vẻ cho độc giả cảm
tưởng rằng câu chuyện rồi cứ sẽ kéo
dài như thế măi không thay đổi (“... và họ sống
hạnh phúc bên nhau măi măi.”).
Trên thực tế, câu chuyện
không bao giờ có đoạn kết mà biến chuyển
không ngừng. Vậy công nhận
rằng con người ngày nay sống an lạc hơn là một
tư tưởng quái dị v́ không ai biết được
câu chuyện sẽ tiến hành ra sao. Có chỉ vào điểm nào th́ lại
có ngay điểm khác đối kháng lại mà không bao giờ
hết.
Ấy vậy nhưng
người ta vẫn dự định và tính toán như thể
có một đoạn kết.
Chỉ v́ họ u mê nên cứ tưởng rằng sự
việc có thể bền vững lâu dài mà không biến đổi. Họ hoàn toàn không nhận ra rằng
họ chỉ sống trong ảo tưởng.
Có một câu chuyện khác về
Quy Sơn. Ông nói với đệ
tử, “Hôm nay trời lạnh như năm ngoái và năm tới.” Quay qua Ngưỡng Sơn, Quy
Sơn hỏi: “Hăy nói cho ta biết có những ngày nào trong
năm giống nhau?”
Ngưỡng Sơn là một
tăng sĩ đă tu lâu năm.
Ông chỉ giữ im lặng.
Quy Sơn nói: “Ta biết
ông không trả lời được.” Rồi nh́n Hương Nghiêm, một
tăng sĩ c̣n non nớt mà hỏi, “C̣n ngươi th́
sao?” Hương Nghiêm liền
đáp, “Con trả lời được.” Lúc đó Quy Sơn ngắt lời,
“Ta rất vui mừng thấy sư trưởng không
đáp được.” Làm sao
mà nói ǵ được về gịng đời lưu chuyển
liên tục? Có nói ǵ th́ chỉ
là đóng khung nó trong những khái niệm mà xa ĺa hẳn thực
tại.
Người đă giác ngộ
chỉ muốn thức tỉnh mà không bao giờ sống
trong ảo mộng nữa. Thế
là đủ.
Đức Phật đă đề cập
đến vấn đề sống ở đời với
tư tưởng phải thay đổi Thực Tại. Ngài nhận ra rằng tất cả
ảo tưởng là do “cái tôi” gây nên. Tin vào ảo tưởng này là tạo
ra một lối sống khác biệt không tự nhiên. Hành động có dụng ư do bản
ngă điều khiển nên nó rời rạc, chia chẻ, chỉ
đặt trọng tâm vào một điểm, trong khi hành
động hồn nhiên bao gồm tất cả. V́ không chú ư đến toàn diện
nên tất phải đưa đến phiền năo, nghĩa
là bất măn, đau khổ, rối loạn.
Không phải v́ thế mà con người
không nên hành động. Một
khi đă sống ở đời, làm sao tránh được
điều đó? Thật vậy,
cuộc đời là hành động, là chuyển động,
là năng lực. Không có ǵ
đứng bất động, dù chỉ trong một giây ngắn
ngủi. Dù cho có muốn bất
động cũng không được v́ tất cả
đều chuyển động.
Chẳng hạn như bạn có muốn ngồi yên
trong một gịng suối th́ vẫn phải tác động với
tất cả các sự vật chảy ngang qua.
Người đă giác ngộ nh́n thấy
vấn đề quan trọng ở đời không phải
là làm thế nào để thay đổi thế giới cho
vừa ư ḿnh mà là làm thế nào để chú ư vào sự việc
đang xảy ra trong lúc này.
Nói rơ hơn th́ vấn đề là phải tỉnh
giác chứ không phải là đạt điều ǵ làm ḿnh
hài ḷng. Có như thế th́ con
người vẫn hành động nhưng không v́ có dụng
ư hay khát vọng.
Mỗi lúc người ta lại bước
vào một hoàn cảnh mới.
Thay v́ dự định toan tính th́ hăy chăm chú quan
sát sự việc đang diễn tiến trong khoảng khắc
này. Đôi khi v́ tất cả
đều biến chuyển liên tục nên có toan tính điều
ǵ th́ chỉ là tạo thêm chướng ngại, bởi v́
khi mải mê với điều ḿnh toan tính th́ lại bỏ
lỡ mất những cơ hội mới.
Vấn đề thiết yếu không
phải là có nên hành động hay không mà là phải luôn luôn
tỉnh thức để nh́n rơ sự kiện đang xảy
ra. Có nh́n thấy rơ mọi sự
việc trong từng giây từng phút th́ tự nhiên biết
hành động cho thỏa đáng.
Quy Sơn nói, “Tại sao phải xen
vào?” Có thấy rơ rồi th́
không c̣n muốn can thiệp vào, th́ để mọi sự
việc cứ tự nhiên mà diễn ra từ cái toàn diện. Giác ngộ là thế. Người đă giác ngộ chỉ
quan tâm đến sự việc đang xảy ra mà tùy nghi
đáp ứng, nên khác người c̣n sống trong ảo
tưởng. Điểm này
tuy khó thấy nhưng lại có hậu quả toàn diện. Thông suốt nó th́ tâm hoàn toàn biến
đổi.
Giác ngộ chỉ là hoàn toàn tỉnh thức
để nh́n thấy rơ cái tâm tham đắm mà buông bỏ
khát vọng, là nhận thấy ḿnh không riêng rẽ, thiếu
thốn hay yếu đuối.
Một khi không c̣n để cái tôi điều khiển
hành vi th́ không c̣n bị thôi thúc phải xoay sở để
cải thiện hoàn cảnh đời.
Sự thật là làm ǵ cũng chẳng
thể tạo được hoàn cảnh như ư muốn
và được sống hạnh phúc măi măi. Có thực hiện được
hoàn cảnh vừa ư th́ cũng chỉ được trong
chốc lát. C̣n muốn t́m hiểu
là để làm vừa ḷng ai th́ cũng chẳng bao giờ
biết được câu giải đáp. Vậy th́ xen vào làm ǵ?
Có xét kỹ sự việc diễn biến
trong từng khoảng khắc th́ thấy ngay là không có ǵ
để mà níu kéo. Không phải
v́ vậy mà người ta không nên hành động, dự
tính hay tin tưởng. Chỉ
cần không để sự việc này nọ làm mê mờ
thôi.
Đối với người đă tỉnh
thức, động cơ thúc đẩy đă thay đổi. Chỉ cần tỉnh giác trong từng
giây phút rồi đối phó với từng hoàn cảnh một. Tỉnh thức trong từng giây
phút giúp cho người ta hành động thích nghi với
t́nh thế.
Trong mỗi khoảng khắc thế
gian lại tái sinh và con người cũng vậy. Con người bạn đă thay
đổi biết bao lần từ khi bạn cầm cuốn
sách này lên đọc. Mỗi
lúc lại có một người mới tái sinh. Chẳng có ǵ tồn tại th́ làm
ǵ có “bạn” nào mà lo bảo vệ và chiều chuộng?
Người đă giác ngộ luôn luôn nhớ
điểm này nên không tin vào sự trường cửu. Phần đông người ta
đến với thiền v́ muốn t́m hiểu Thực Tại. Nhưng một khi đă quan sát kỹ
lưỡng rồi th́ mới thấy Thực Tại chẳng
giống sự vật nào cả mà chỉ là nó mà thôi.
Sextus Empiricus, một hiền triết
theo chủ nghĩa hoài nghi thời xưa, có nhận xét
như sau: “Sống bằng kinh nghiệm là đủ, không
cần tin tưởng.” Thật
ra chỉ cần nh́n thấy rơ.
Có thức tỉnh th́ nhận thấy ngay rằng từ
bao giờ con người cũng chỉ khao khát có giác ngộ.
Thiền là làm hết sức
ḿnh. Nhưng con người
không biết thế nào là “hết sức ḿnh,” nên mới bị
lạc trong khái niệm này. Cho
nên người ta mới đặt ra thế nào là phải
trái, là nên hay không nên làm việc ǵ, mới tạo dựng mục
tiêu và khuôn mẫu để đo lường mức tiến
bộ.
Như thế chỉ là
đưa tất cả vào phạm vi của bản
ngă. “Ta sẽ thành công.” “Ta sẽ hơn người.” Rồi bị lạc loài trong
tư tưởng và tham vọng cá nhân. Ngay cả trong lănh vực thiền,
trí huệ hay tự ái cũng không tránh khỏi vấn đề
này. “Ta sẽ xả thân quên
ḿnh.” “Ta sẽ chứng niết
bàn.” Thật là lố bịch.
Hăy xét cái tâm có những
tư tưởng kỳ lạ trên. Đó là cái tâm thường t́nh,
tham lam, thèm muốn, chia chẻ và động loạn. Trong thiền tông, làm hết sức
ḿnh là phát triển một cái tâm không vướng mắc
trong những hành động ích kỷ, chia rẽ người
và cô lập ḿnh.
Lương Khoan, một thiền
sư Nhật Bản và cũng là một thi sĩ ở cuối
thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, đă có một
tâm rất thiền. Có nhiều
chuyện kể về Lương Khoan. Sau đây là hai câu chuyện tiêu biểu.
Một hôm Lương Khoan
vắng nhà. Một tên trộm
lẻn vào căn nhà của ông để ăn trộm. Không t́m được vật ǵ
có giá trị, tên trộm sửa soạn bỏ đi th́
Lương Khoan về bắt gập. Thương hại tên trộm,
Lương Khoan liền cho hắn tất cả quần áo
của ḿnh. Tên trộm kinh ngạc,
nhận rồi bỏ chạy.
Đêm đó ngồi ngoài trời ngắm trăng lên,
không mảnh vải che thân, Lương Khoan nghĩ, “Thật
tội nghiệp! Ước
ǵ ta có thể cho hắn mặt trăng.”
Có thể Lương Khoan
nói đến mặt trăng thật hoặc đến trạng
thái giác ngộ mà mặt trăng là một biểu tượng. Ông muốn cho tên trộm cái tâm thức
tỉnh nhưng lẽ dĩ nhiên là không được. Mỗi người phải tự
phát triển cái tâm đó. Không
ai làm hộ người khác được.
Một câu chuyện khác kể
Lương Khoan đang ngồi trong nhà th́ nh́n thấy một
búp măng trồi lên khỏi nền đất. Ông cứ để mặc cây
măng mọc cho đến một ngày th́ nó đụng phải
trần. Lúc đó, Lương
Khoan leo lên mái cắt lấy một khoanh để cây tre tiếp
tục mọc lên.
Làm hết sức ḿnh là
bước vào giây phút hiện tại và nh́n rơ sự việc
đang phơi bầy, là nhận thấy đời ḿnh
không thuộc về ḿnh mà gắn liền với toàn thể
vũ trụ.
Con người thường
nghĩ ḿnh là những thực thể riêng rẽ nên cảm
thấy cô độc, rồi trở thành ích kỷ, rồi
phải gập khó khăn và chịu đau khổ. Để xoa dịu niềm
đau này, người ta tốn nhiều công phu và nghị
lực để thay đổi ḿnh, tha nhân và môi trường
mà không mảy may ư thức được rằng hành động
của ḿnh ảnh hưởng đến người khác.
Người ta rất dễ
nhận ra cái ǵ ở “bên ngoài” xúc phạm đến ḿnh rồi
phản ứng “Ta không muốn
cây tre mọc ở kia.” “Ta
không muốn đầu tư mà chỉ đem về lợi
tức dưới 10 phần trăm.” Tuy nhiên, hiếm khi người ta
xét xem tâm ḿnh thế nào và hành động của ḿnh tác
động ra sao lên thế giới chung quanh.
Hăy xét phương pháp thiền. Người ta thường coi
đó như là một thế ngồi đặc biệt
trong một khoảng thời gian nhất định. Định nghĩa như vậy
thật hạn hẹp. Nói
đúng hơn th́ thiền là hiện hữu cùng với sự
việc đang tiến triển chứ không phải cùng với
những xúc cảm và tư tưởng đang phát hiện
trong tâm thức. Người
ta chỉ biết để ư đến nào là những lời
giải thích, biện bạch, hay lo lắng mà thôi. Tâm thiền khác hẳn với tâm
thường t́nh chỉ muốn xếp đặt và điều
khiển sự việc theo ư ḿnh.
Tâm thiền lúc nào cũng ở
ngay đây trong giây phút hiện tại, bất luận
người ta làm ǵ và đang ở đâu. Có tâm này phát hiện th́ hậu quả
ra sao không quan hệ. Chỉ có
sự việc đang xảy ra – lái xe, nói chuyện hay nằm
trên giường – mới đáng kể.
Người ta thường
hỏi: “Phải ngồi thiền trong bao lâu?” Câu hỏi thường t́nh
nhưng cho thấy thói quen của con người khi đối
diện với một vấn đề. Nó cũng hàm chứa những mong
chờ của họ. Cho nên
thiền trong bao lâu không đáng kể bằng có thiền
đều đặn hay không và thiền trong tinh thần
nào. Có thói quen này là bắt
đầu phát triển tâm thiền. Quan tâm đến thời gian ngồi
thiền chỉ là lề lối của cái tâm đo lường,
tham lam thường nhật.
Trong khi thiền chỉ cần
chăm chú vào khoảng khắc hiện tại mà không quan
tâm đến việc cải thiện tâm cho nó sáng suốt
hơn, tập trung hơn, tỉnh thức hơn. Không phải ép ḿnh ngồi yên mà khống
chế cái tâm vọng động.
Làm hết sức ḿnh chỉ là nhận định rơ
rằng lối sống thường nhật của ḿnh
không thích hợp rồi thay đổi thái độ. Phải tập thực hành với
tất cả tấm ḷng, và chỉ thực hành thôi, không v́
mục đích hay lư do ǵ.
Cái tâm trong sáng vốn có của
con người bao giờ cũng ở ngay đây, không cần
phải t́m mới đạt được. Thiền chỉ là hoàn toàn có mặt
ở đây trong lúc này, là tái sinh trong từng khoảng khắc,
là sống hồn nhiên, lành mạnh và đổi mới theo
từng giây từng phút. Sống
mỗi giây phút cho thật đầy đủ trọn vẹn
rồi tiêu diệt con người này đi không để
lại dấu vết là có tâm giải thoát. Đồng thời cũng để
mọi người sống tự do cuộc đời của
họ mà không can thiệp vào.
Có nhận định được những lỗi
lầm cũ của ḿnh đối với người khác
th́ mới có thể tha thứ cho ḿnh được rồi
sửa đổi.
Thế là biết sống một
cuộc đời lành mạnh, an b́nh, ḥa hợp. Làm hết sức ḿnh là thế
đấy.
Một đệ tử
đến hỏi thiền sư Tào Sơn, “Vật quư nhất
ở đời này là ǵ?” Tào
Sơn đáp, “Đó là đầu con mèo chết.”
“Tại
sao đầu một con mèo đă chết lại quư nhất?”
Người đệ tử hỏi.
“Bởi
v́ nó không có giá.” Tào Sơn
đáp. Khổ thay cho người
biết giá trị của sự vật v́ họ sẽ
đánh giá mọi vật. Làm
như thể họ để mọi sự việc lên cân
rồi đánh giá, “Vật này có lợi ích ǵ?” “Hoàn cảnh
này có lợi cho ta không?”
Càng đo lường, phán
xét th́ càng tham lam, mưu mẹo.
Con người cảm thấy bất măn mà không hiểu
v́ đâu. Họ không nhận
ra rằng v́ đo lường mà cứ măi khổ đau
nên cứ đeo đuổi hết vật này đến vật
khác mà bỏ lỡ vật quư giá nhất trên đời. Ấy vậy mà họ cứ phạm
lỗi này măi.
Điều người ta
mong muốn nhất không thể mua bán như một vật
dụng. Nó rất giản dị
nên luôn luôn bị bỏ quên, nhưng thật ra nó vẫn ở
ngay tầm tay. Vật vô giá là
sự tỉnh thức. Con
người muốn nh́n rơ nhưng lại không có ǵ để
nh́n, để nắm giữ hay thu thập lại. Không phải là một vật hữu
h́nh mà họ nắm được trong bàn tay hay một vật
vô h́nh có thể ôm giữ trong tâm.
Những vật đánh giá
hay đo lường được, tâm người lại
thật sự không khao khát. Cái
họ thật sự cần và muốn th́ vô giá và họ
đă có rồi. Nhưng chính
v́ nó vô giá nên dễ bị bỏ quên. Con người thường bị
mê hoặc bởi những vật họ đánh giá. Do đó họ mới cho rằng
vật quư giá nhất cũng giống như mọi vật
họ vẫn thường đánh giá nhưng có phần to
lớn hơn, đẹp hơn và cảm động
hơn. Vật đó không phải
là một vật thông thường mà chính là khoảng khắc
này.
Trong cuốn “Tâm thiền
là tâm của người mới học đạo,”
Shunryu Suzuki viết “Khi tôi nói xong th́ bạn cũng nghe
xong. Không phải nhớ, không
phải hiểu lời tôi nói.”
Không nên đánh giá một bài thuyết giảng hay một
cuốn sách. Dĩ nhiên người
ta không muốn uổng phí thời gian nghe những lời
vô bổ nhưng họ lầm to nếu sau buổi thuyết
tŕnh họ tưởng có thể nắm được cái
ǵ bỏ túi đem về.
Sự vật nào có chân giá
trị đều không thể nắm giữ được. Con người biết rơ điều
này nhưng vẫn quay mặt làm ngơ. Điều quan trọng sau khi nghe
một bài giảng hay đọc một cuốn sách về
thiền không phải là nhớ hay nhắc lại điều
ǵ mà là cái tâm có biến đổi hay không.
Khi đương đầu
với hiện tại, điều đáng quư nhất là
hoàn toàn tỉnh thức, hoàn toàn sống trong khoảng khắc
này. Có như thế khi khoảng
khắc đó qua đi th́ vẫn hiện hữu với cái
đang xảy ra bây giờ.
Vấn đề không phải
là hiểu để sau này áp dụng. Vấn đề chỉ là
“như thế này.” Bạn
đă hiểu cả rồi.
Cho nên không cần nắm giữ hay t́m kiếm để
đạt điều ǵ v́ đó chỉ là ảo tưởng.
Gần đây tôi có đọc
chuyện về một công ty có sản xuất một loại
hạt giống đặc biệt. Người nông dân mua loại giống
này tăng gia sản xuất rất mạnh nhưng không thể
giữ hạt lại để trồng vào mùa tới v́ hạt
không mọc mầm. Cấu
trúc của hạt giống, tức là bản chất của
sự sống đă bị biến đổi.
Hành động này phát sinh từ một
cái tâm gập ǵ cũng đánh giá, ngay cả tính chất
căn bản của sự sống. Tâm này không chấp nhận sự
vật “như thế” mà muốn chúng có thể đem lại
cái ǵ cho nhân loại. Sống với
tâm đó là không muốn chấp nhận Thực Tại mà
chỉ thích cái nh́n trừu tượng. Cho nên mới không biết thật
sự sống trong thế giới này.
Hành động như thế Đức
Phật gọi là “nghiệp” (nghĩa là có chủ ư) ngược
lại với hồn nhiên, không chủ ư. Loại hành động này không
quan tâm đến cái toàn diện, cái nền trên đó mọi
sự việc xảy ra.
Ngược lại, có nh́n vào toàn thể th́ không thể
t́m thấy cái ǵ mà đo lường hay đánh giá
được. Cho nên có thể
thấy rơ rằng có làm thế chẳng thể thật sự
đem lại an lạc. Không
thể nói là cái ǵ tốt hay xấu, có giá trị hay
không. Sự việc chỉ là
“như thế”. Ư thức sự
việc “như thế” là đáng quư nhất và không thể
đánh giá.
24
“Tu Bồ
Đề, ai sẽ nắm giữ được cái trí huệ
tuyệt hảo giảng nghĩa ở đây?”
Liền đó Ngài A Nan
đáp: “Những kẻ không thể trở lui hay những kẻ
đă biết nh́n đứng đắn...”
Tu Bồ Đề nói, “Chẳng
một ai có thể nắm giữ được trí huệ
tuyệt hảo này. Bởi v́
chẳng có ǵ được chỉ dẫn, soi sáng, hay truyền
đạt. Cho nên chẳng có
ai để nắm giữ.”
- Trích từ
“Trí Huệ Tuyệt Hảo Qua Tám Hàng Chữ”
Trước khi sự kiện xảy ra, những kẻ
có trí huệ thường bị coi là xuẩn ngốc. Ngược lại, sau đó th́
rơ ràng những kẻ ngu xuẩn lại là những chuyên
gia. Chẳng hạn, vào thập
niên 1980, nhà máy điện tử sô viết ở Chernobyl
phát nổ, phun chất phóng xạ ra khắp địa cầu. Chưa đầy một năm
trước đó, một viên chức cao cấp sô viết
đă trấn an dư luận thế giới rằng nhà
máy điện tử của họ rất an toàn. Viên chức này c̣n đặc biệt
đề cập đến Chernobyl và quả quyết rằng
cả ngàn năm sau cũng không có thể có một tai nạn
đáng kể nào.
Chỉ vài tháng trước khi phi thuyền
Challenger nổ tung, một viên chức của cơ quan hàng
không và không gian Hoa Kỳ (NASA) cũng đă quả quyết
với dân chúng rằng cả ngàn phi thuyền khi được
phóng lên, họa chăng chỉ có một cái có thể gập
tai nạn thôi. Ấy vậy
mà đă có hai tai nạn, lần này lại là khi phi thuyền
trở về trái đất chứ không phải khi
được phóng lên, nghĩa là đáng lẽ có ít nguy hiểm
hơn.
Cách đây không lâu, các chuyên gia cũng bảo
đảm rằng khủng bố bằng sinh trùng không
đáng ngại. Ấy thế
mà bột anthrax đă giết một số người và
làm tê liệt hệ thống bưu điện Hoa Kỳ v́
chất này đă được gửi đi bằng
bưu điện.
Trong những trường hợp trên,
những người được gọi là chuyên viên
đă bỏ qua hoặc không nhận thấy những sự
kiện hiển nhiên. Bản
chất của kiến thức là chỉ từng phần. Một khi đă có một lối
nh́n nhất định rồi th́ tất nhiên phải bỏ
qua nhiều khía cạnh khác của vấn đề. Với trí huệ (cũng như với
Thực Tại) th́ không như vậy v́ không có sự việc
ǵ bị bỏ quên.
Thời trước, những vị
lănh đạo thường hỏi ư kiến của các bậc
hiền triết. Ngày nay, họ
chỉ trông chờ vào những chuyên gia. Điều này cũng dễ hiểu
v́ hai lư do: trước tiên, các
nhà chuyên môn dễ được nhận diện và chứng
nhận; thứ đến, những kẻ có trí huệ
không tự xưng danh.
Vấn đề không phải là các nhà
chuyên gia không đóng vai tṛ quan trọng nhưng là v́ họ
không soi dẫn con người đến Sự Thật
được. V́ kiến thức
của họ chỉ chuyên vào một phạm vi, cho nên họ
không thể đưa nhân loại đến chỗ có thể
nh́n thấy tất cả. Tệ
hơn thế, họ c̣n hướng con người nh́n về
phía khác.
Muốn trở thành một chuyên gia th́
phải đặt giới hạn quanh địa hạt
ḿnh nghiên cứu. V́ thế các
chuyên gia thường có riêng của họ một thứ
ngôn ngữ và những lối lư luận chắc chắn,
không nghịch lư. Nhưng v́ họ
giữ chúng trong một phạm vi có giới hạn nên những
kết luận của họ không thể nào giải thích
được Sự Thật tuôn trào bàn bạc khắp mọi
nơi.
Cho nên dù nhân loại có lập nên khuôn mẫu
hay khái niệm nào th́ cuối cùng cũng chỉ là thay thế
Thực Tại chứ không thể là Thực Tại. Khi tự giới hạn ḿnh trong
một cái bong bóng, một cái kén, một phạm vi giới
hạn, th́ khó mà nh́n ra được rằng tất cả
kiến thức của con người đều trôi trên
đại dương mênh mông của Thực Tại với
vô số bong bóng khác. Từ
trong bong bóng cũng khó mà nhận định được
rằng bong bóng có vỡ th́ mới nh́n ra được sự
thật. Tuy nhiên sớm muộn
ǵ th́ bong bóng cũng phải vỡ.
Lúc đó không nên vội vàng đi t́m kiếm ngay một
bong bóng khác mà vào.
Tốt hơn hết là nên tự ḿnh
đập vỡ cái bong bóng của ḿnh, nhưng không phải
bằng âm mưu, toan tính hay cố gắng mà chỉ bằng
cách nh́n thấy rơ ràng.
Người đă giác ngộ nh́n rơ Thực
Tại – Sự Thật – trước khi lập khái niệm. Cái nh́n này gọi là pháp. Người ta không thể có khái
niệm nào về pháp, không thể dùng ngôn ngữ đặc
biệt nào mà diễn tả, cũng không thể dùng học
thuyết nào mà định nghĩa.
V́ vậy giáo lư nào dẫn đến Sự Thật rồi
cũng tự hủy diệt giống như bàn tay phải
viết trên bảng trong khi bàn tay trái xóa bỏ. Nghe như thế thật là mâu thuẫn
nhưng thật không phải vậy.
Khác với những giáo lư thông thường
mà người ta cho là có ích và vĩnh viễn, pháp chỉ có
giá trị nhất thời rồi qua đi. Đức Phật đă ví pháp của
ḿnh như một con đ̣ dùng để sang sông. Sang bờ bên kia rồi th́ bỏ
đ̣ lại v́ sau đấy nó sẽ chỉ là một gánh
nặng vô ích.
Đáng tiếc là phần đông con
người gạt bỏ tính chất tự mâu thuẫn
này của pháp v́ họ tin tưởng vào những giáo lư
đă được trân quư qua bao thế kỷ mà không quen
tự ḿnh nh́n lấy. Gạt
bỏ pháp là không nhận thấy rằng quan niệm và thực
tại không bao giờ ăn khớp với nhau. Càng muốn tránh mâu thuẫn (từ
bỏ những quan niệm tự ḿnh đă đặt ra),
càng không nhận ra sự thật.
Khác với pháp, những giáo lư thông
thường không chấp nhận có nghịch lư hay thay
đổi mà trái lại muốn ôm chặt lấy đối
tượng ở một thế nhất định để
dễ bề nắm giữ.
Nhưng giáo điều nào bất luận về chính
trị, kinh tế, tâm lư, tôn giáo, khoa học hay cơ khí cũng
chỉ muốn nắm giữ một sự vật, rồi
cũng phải qua đi.
Khi nào c̣n cho rằng khái niệm là sự
việc đang diễn tiến th́ c̣n sai lầm. Sự thật không thể diễn
tả, không thể nghĩ bàn, nhưng có thể thấy biết.
Nhân lọai khao khát Sự Thật
nhưng lại đi t́m nó trong những khái niệm, những
từ ngữ. Cứ làm
như nó là một vật bỏ trong túi rồi lúc nào muốn
th́ lấy ra mà khoe. Trong khi
người ta bận bảo vệ sự vật trong túi
th́ Sự Thật không ngừng luân chuyển biến hóa
trong một sự tương đối hoàn toàn. Không có chuyên gia về pháp, về Sự
Thật. Không thể nắm quyền
chủ động cuộc đời ḿnh, nhưng vẫn
có thể tỉnh thức.
Ca Na Đề Bà, sau này là tổ
thiền thứ 15, đến gập Long Thọ, tổ thiền
thứ 14, xin làm đệ tử.
Như Long Thọ, Ca Na Đề Bà nổi tiếng là
khôn ngoan, thích hùng biện, triết học, và tranh luận.
Long Thọ biết rơ điều
này nên khi Ca Na Đề Bà đến, ông nghĩ: “Để ta thử xem hắn có
trí huệ đến mức nào.”
Khi Ca Na Đề Bà bước đến cổng,
Long Thọ sai một người hầu đem một bát
nước đầy đến rồi đứng xa theo
dơi. Khi được trao cho
bát nước đầy, Ca Na Đề Bà rút ra một cái
kim bỏ vào bát nước rồi cầm bát nước
đem đến cho Long Thọ.
Long Thọ thấy thế rất hài ḷng và cả hai
cùng cười lớn. Họ
cùng một tâm nên hoàn toàn thông cảm nhau. Sau đó, nhiều khi cả hai
cùng giảng pháp, cùng đi đây đó với nhau.
Có nhiều lối giải
thích câu chuyện trên. Cái bát
thường được biểu tượng cho sự
giác ngộ và cái kim cho ước vọng được
giác ngộ. Tuy nhiên đó chỉ
là những h́nh ảnh dễ làm người ta mê hoặc mà
lạc hướng. Nên đào
sâu mà t́m hiểu th́ hơn.
Trước hết là cái
bát đong đầy nước trong. Dù bát có đầy, Ca Na Đề
Bà vẫn nh́n thấy tận đáy, biểu tượng
cho tánh không, cho sự toàn diện của Thực Tại. Ca Na Đề Bà đáp ngay lại
bằng cách ám chỉ đến khía cạnh bổ xung của
đời sống hàng ngày.
Đời sống này ḥa tan vào toàn bộ mà không bỏ
sót một phần nào. Ca Na
Đề Bà đă nối sát gót Long Thọ.
Trong huyền thoại thiền,
người ta thường tả Long Thọ như mặt
trăng đầy (giác ngộ) hay trong câu chuyện này,
như một bát nước đầy. Ca Na Đề Bà cũng c̣n có nghĩa
là “người có một mắt”.
Cái kim cũng chỉ có một mắt (lỗ xâu
kim). Một mắt của Ca
Na Đề Bà thường được gọi là mắt
của nhất nguyên.
Cái kim có một công dụng
nhất định. Điều
này thông thường và thỏa đáng. Tuy nhiên khi bước vào thế
giới của mục đích và công dụng, tức là chủ
ư, th́ người ta dễ bị mê lạc mà tưởng rằng
tất cả đều đa dạng và lưỡng
nguyên.
Con người có thể
nh́n thấy rằng cả lưỡng nguyên và toàn bộ,
mê lầm và giác ngộ, ta bà và niết bàn, chỉ là một
chứ không hai. Nhưng vốn
quen bị bản ngă thao túng nên họ cứ tưởng
ḿnh riêng rẽ và xa cách mọi sự vật rồi đâm
ra ham muốn, sợ hăi, thương ghét. Thật ra ai cũng có khả
năng nh́n thông suốt và chứng nghiệm được
tính cách toàn diện của sự sống. Khi bỏ cái kim vào bát nước
đầy, Ca Na Đề Bà đă diễn tả sự kiện
này.
————————————————————
từ trái sang phải ®
và
hỏi đối nghịch của nó là ǵ th́ sẽ có
người vẽ một đường ngược chiều
như thế này.
————————————————————
← từ phải sang
trái
————————————————————

Có câu chuyện kể một
người đến hỏi một thiền sư, “Tôi
nghe kể lại có một vị Phật thời xưa
tên Đại Thông Trí Thắng ngồi thiền cả
mười niên kỷ mà cũng không giác ngộ. Tại sao vậy?” Người thầy đáp, “Ông
đă tự trả lời câu hỏi rồi.”
“Nhưng vị Phật đă thiền
lâu như vậy mà sao không giác ngộ?”
Người thầy lại đáp, “Ông
ta không phải là Phật.”
Con người thường
muốn được giải thích về mọi chuyện. Họ ngồi thiền với ư
nghĩ rằng nếu cố gắng th́ tất phải
đạt được điều ǵ ngoạn mục. Họ mong đợi rất nhiều,
nào muốn biết Phật là ǵ, giác ngộ là ǵ, giải
thoát là ǵ, chuyện ǵ xảy ra khi ngồi thiền lâu. Rồi họ thất vọng khi
điều mong đợi khác xa thực tế. Họ không hiểu rằng v́ quá
mong đợi nên mới có vấn đề.
Thông thường, muốn
làm việc ǵ thật giỏi th́ cứ chuyên cần học
hỏi và tập luyện tất sẽ được. Tuy nhiên, áp dụng điểm này
vào thiền th́ thật là sai lầm và chẳng hiểu ǵ cả. Có người c̣n nghĩ rằng
thiền sư là người đă nắm được
nghệ thuật thiền.
Trong câu chuyện trên,
người đặt câu hỏi cho rằng cứ cố
gắng thiền một cách chăm chỉ th́ sẽ chứng
nghiệm được điều ǵ đặc biệt
sâu sắc. Th́ cũng như
thói thường. Bằng không
th́ bỏ cuộc. Quả
như thế, nhiều người đă bỏ thiền
sau nhiều cố gắng v́ không đi đến
đâu. Tại sao? Bởi v́ họ tin rằng đă
làm ǵ th́ “phải đi đến đâu.”
Thiền không phải để
đi đến đâu, để thành Phật. Không thể được. Không có ǵ thành Phật cả. Một vị Phật chỉ là một
người đă tỉnh thức và ư thức được
Thực Tại. Nh́n được
sự việc là “như thế”, Thực Tại là “như
thế” th́ là Phật. Ấy vậy
nhưng con người vẫn bám víu vào khái niệm rằng
cứ cố gắng th́ sẽ được giác ngộ
như Đức Phật. Sự
thật là không được v́ họ đă là Phật rồi
th́ c̣n ǵ để đạt nữa?
Phần đông thiên hạ
học thiền để đạt một cái ǵ nhưng
trên thực tế thiền là để loại bỏ cái
ǵ. Ngay bây giờ mọi
người đă có tất cả để hoàn toàn hiểu
cuộc đời mà không c̣n phải hoang mang, sợ hăi, vọng
tưởng, đau khổ.
Nhưng họ vẫn cứ nghĩ là họ c̣n thiếu
điều ǵ quan trọng lắm nhất là về vấn
đề giác ngộ. Rồi
họ c̣n nghĩ là nếu chịu khó thiền lâu một thời
gian th́ sẽ thành Phật.
Nhưng Thực Tại
không phải như vậy. Một
khi đă có một vật ǵ rồi th́ c̣n cần ǵ phải
đạt nó nữa? Giống
như đang sống ở thành phố New York mà lại cứ
muốn sang Hoa Kỳ. Thiền
giả trong câu chuyện chỉ là một nhân vật giả
tưởng. Người
đặt câu hỏi cho rằng thiền giả thiếu
thốn điều ǵ nên phải thiền để thành Phật. Nhưng không bao giờ có một
người như vậy cả.
Bất cứ ai cũng có khả năng thức tỉnh
để chứng nghiệm bản chất của Thực
Tại.
Câu chuyện thiền sau
đây kể rằng có một người đến gập
một thiền sư xin giúp giải thoát tâm của
ḿnh. Thiền sư hỏi: “Ai buộc tâm lại?” Người kia đáp: “Không ai buộc cả.”
“Vậy sao phải giải
thoát?”
Con người có thói quen sống
mà luôn luôn đi t́m cái ǵ.
Nhưng tại sao lại phải đi t́m cái ǵ đă
ở ngay trước mắt?
Họ mất rất nhiều thời gian để
suy nghĩ, xếp đặt, tách rời khỏi thực tại,
rồi tưởng tượng ḿnh thiếu cái ǵ và phải
t́m cho ra cái đó để khỏa lấp khoảng trống.
Trừ phi nhận định
được rằng đó là điều ḿnh đang làm,
không th́ không thể thành Phật được v́ Phật
chỉ là một tư tưởng. C̣n bị vướng mắc trong
tư tưởng đó th́ c̣n không thấy sự thật nằm
ngay trong khoảng khắc hiện tại.
Phật là những kẻ
đă thấy rơ họ sống trong ảo mộng. Họ không có một tài năng
đặc biệt nào cả nhưng thấy rất rơ cái
tṛ mà con người đang chơi, đang bị phỉnh
lừa để chơi th́ đúng hơn. Họ cũng thấy rơ rằng
v́ không nhận ra điều này nên chơi tṛ này chỉ
đem lại phiền năo cho con người.
Thiền là để hàng
ngày người tập thiền thấy ḿnh bị lừa,
bị những tư tưởng về thực tại lôi
cuốn, bị những ưa ghét, sợ hăi và thành kiến
trói buộc dễ dàng như thế nào.
Tuy nhiên, con người
đă ở đây rồi, đă là Phật rồi và cũng
sẽ như thế măi. Tiếc
rằng họ không ư thức được điều
đó nên cứ làm rắc rối thêm một vấn đề
không đáng ǵ. Thiền không
để t́m kiếm hay đạt cái ǵ, mà chỉ để
nhận ra hoàn cảnh đích thực của con người,
tức là họ không thiếu thốn ǵ cả mà phải
đi t́m kiếm.
Tất cả chỉ là ư thức
trong từng khoảng khắc một rằng những sự
việc đang xảy ra như thế. Thế gian không nhất thiết
phải đặc biệt như thế nào cả. Nó luôn luôn sôi nổi, có thật
nhưng không thể đoán trước được. Chỉ cần nh́n thấy nó là như
thế ở ngay đây.