Phật Học Lược Giải
của
Phước Quế Dương Đ́nh Khuê
Phần Thứ Nhất
I. Hai Vấn Đề Tiên Quyết.
A. V́ đời người là
bể khổ.
1) Trong cuộc đời, ai cũng
có những lúc vui sướng và những lúc buồn khổ,
dù là kẻ cùng đinh hay bậc cực quư, cực phú. Nói chung,
quan niệm của loài người là như vậy
: đời vừa có vui, vừa có khổ. Và đó cũng là quan niệm thông thường của
các tôn giáo ngoài Phật giáo, và của các hệ thống triết
học (trừ một vài đặc lệ như triết
học bi quan của Schopenhauer).
Người Gia Tô giáo sung sướng
và thấy ḷng ḿnh được b́nh an
trong t́nh thương của Đức Chúa. Đôi khi
họ cũng thấy khổ, nhưng coi cái khổ đó
là thử thách của Đức Chúa, nên nhẫn nhục chịu
đựng.
Khổng học
th́ lại rất lạc quan. Cái học của người
quân tử là tu, tề, trị, b́nh. Có phận
th́ ra làm quan, giúp vua, giúp nước. Không
phận th́ lui về làm ruộng, làm một tên bạch
đinh, cũng vui.
Tinh thần Đông phương an bần thủ phận đó c̣n rơ ràng
hơn nữa trong Đạo giáo, coi công danh phú quư như phù
vân. Nhưng người đạo sĩ cũng
như nho sĩ, vẫn lạc quan. Họ
chỉ tránh tục lụy của xă hội nhiều lễ
giáo bó buộc, phiền phức. Và họ
đành ḷng vui thú với một cuộc đời đạm
bạc, với gió mát trăng thanh.
2) Chỉ riêng Phật giáo là có
một luận điệu triệt để và tổng quát : đời người là bể khổ.
Trong diệu đế thứ nhất là Khổ đế,
đức Phật đă nói dứt khoát :
"Sinh là khổ, chết là khổ, cái ǵ ưa thích mà phải
rời là khổ, cái ǵ ghét mà phải gần là khổ . .
."
3) Quan niệm bi quan như thế
có đúng không ? Phải nhận rằng
phần đông thế nhân khó mà chấp nhận nó một
cách triệt để, mặc dầu nó căn cứ trên
kinh nghiệm của đức Phật (qua cuộc tuần
du ở bốn cửa thành) và của chính chúng ta khi chúng ta
gập những việc bất như ư. Tuy nhiên, nếu chịu
khó nghĩ kỹ, th́ sẽ thấy rằng không những
cái khổ không thể tránh, mà cái gọi là sướng cũng
đă có sẵn mầm khổ :
- Cái vui sướng chỉ có
trong chốc lát, không được trường tồn. "Không có bữa tiệc nào là không có lúc tàn ",
do đó cái vui sướng không được hoàn toàn.
Hơn thế nữa, nó c̣n làm cho người
ta trong lúc vui sướng phải lo lắng sợ nó chóng hết,
ví dụ người được bổ vào làm một chỗ
béo bở luôn luôn lo lắng không biết lúc nào sẽ mất
chỗ đó.
- Cái vui sướng đôi khi
phải trả giá trước bằng một cái khổ.
Ví dụ muốn có cái sướng thi đỗ th́ phải
chịu khổ học ngày, học đêm: muốn có cái sướng
được làm ông lớn th́ có khi phải khổ quỵ
luỵ luồn cúi.
- Cái vui sướng đôi khi
có hậu quả là đem lại một cái khổ. Ví dụ sau một bữa tiệc thịnh soạn
có thể bị bội thực, có nhiều tiền sẽ
bị người ḍm dỏ, có địa vị sẽ bị
người ghen ghét.
- Cái vui sướng của
người này đôi khi là cái khổ của người
khác. Ví dụ người đánh bạc được
sướng th́ người thua bạc khổ, ông quan ăn tiền sướng th́ người dân
bị bóc lột khổ, gian thương làm giầu sướng
th́ người cùng đinh khổ. . .
4) Dù có hiểu điều
đó, rằng trong cái sướng đă có sẵn mầm
khổ, phần đông chúng ta vẫn chưa sẵn sàng chấp
nhận Khổ đế của Phật giáo. V́ sao ? V́ chúng ta có thể nghĩ rằng
: Ừ, Ơở đời có người khổ thiệt,
đói rét, không nhà cửa, không có cha mẹ vợ con để
được nương tựa và an ủi. Nhưng chúng
ta may mắn không phải chịu kiếp sống khổ cực
đó. Ừ, chúng ta cũng có những ngày giờ đau khổ : khi ốm đau bệnh tật, khi
cha già mẹ héo, khi phải lo lắng cho con cái, v . v . Mặc dầu vậy, những ngày giờ
đau khổ đó ít, những ngày giờ vui sướng
nhiều hơn, cái này bù đắp cái kia, vậy việc
ǵ phải bi quan, phải nhận đời người là
bể khổ ? Việc ǵ phải khó nhọc
tu hành, việc ǵ phải ép xác giữ giới
?
Nếu ta chỉ
có một cuộc đời, một kiếp sống, th́ lư
luận trên có thể đứng vững. Hơn thế nữa,
cả luận điệu của một số người
gian ác cũng sẽ đứng vững. Họ bảo : "Sống là bậc thánh nhân
như Văn Vương và Khổng Tử, chết là
xương khô. Sống là kẻ tàn bạo
như Kiệt, Trụ, chết cũng là xương khô.
Vậy tuy biết rồi sẽ có lúc khổ, nhưng
được lúc nào vui sướng hăy biết lúc đó, cứ
gian ác tàn bạo để cướp lấy phú quư, tội
ǵ ép ḿnh làm điều thiện ?"
Khốn thay, chết
đâu phải là hết, sẽ c̣n phải tái sinh trong muôn
ngàn kiếp nữa. Mà ai dám chắc rằng kiếp sau ḿnh sẽ lại
may mắn như ở kiếp này, sẽ không bị cơ
hàn, tứ cố vô thân ? Biết đâu
kiếp sau sẽ không bị tàn tật ngay khi sinh ra đời,
câm, mù, xấu xí ghê tởm, hay ngu si đần độn ? Phải, biết đâu không, nhất
là ở kiếp này nếu đă có làm điều ǵ thất
đức ? Cái tương
lai mờ mịt đó thật là khủng khiếp. Nhắm
mắt chối bỏ nó, khác nào người đi trên con
đường bằng phẳng, biết rằng cuối
đường sẽ là vực sâu thăm thẳm, mà không
t́m cách đi rẽ sang con đường khác
? Ai lại có thể ngu si hay ương ngạnh ngoan
cố như thế được ?
Vậy giáo lư luân hồi bổ
khuyết cho giáo lư đời là bể khổ
, nó khiến cho ta, dù kiếp này tạm được
sung sướng, cũng phải lo sợ cho kiếp sau mà
mau mau t́m đường giải thoát.
Nhưng luân hồi có thiệt không ? Đó là vấn đề cốt
yếu cần phải nghiên cứu cho minh bạch. Nếu nó sai, th́ toàn bộ giáo lư đạo Phật
sẽ sụp đổ, v́ sẽ mất căn bản.
Nếu nó đúng, th́ cứ nhơn nhơn túy sinh mộng tử
trong một kiếp sống ngắn ngủi sẽ là một
cử chỉ ngu si, tự gieo ḿnh vào khổ
năo trong muôn vàn kiếp khác.
B. V́ có luân hồi.
1) Luân hồi không phải là một
giả thuyết mà là một sự kiện có thật,
đă được đức Phật kinh nghiệm, và một
số chúng ta kinh nghiệm.
Kinh Trung A Hàm thuật rằng
trong đêm đức Phật đắc quả Chánh Đẳng,
Chánh Giác, lúc canh một, Ngài đắc Túc mạng Minh là tuệ
nhớ lại những kiếp quá khứ, từ một kiếp,
hai kiếp, rồi một trăm, một ngàn, một
trăm ngàn kiếp.
Cứ tạm cho
rằng kinh Trung A Hàm bịa đặt ra những chuyện
hoang đường. Nhưng kinh nghiệm của chính chúng ta cũng
cho ta cảm nghĩ rằng chúng ta đă từng sống một
hay nhiều kiếp trước. Bao nhiêu lần t́nh cờ
ta gặp một người chưa từng quen biết,
nhưng tự nhiên cảm thấy h́nh như đă quen biết
đâu đây ? Bao nhiêu lần ta mục
kích một cảnh mà ta chưa từng đến nhưng
tự nhiên có cảm giác đă quen thuộc ở một quá
khứ vô định nào ?
2) Những cảm nghĩ
đó có thể cho là vu vơ . Nhưng có điều không thể chối căi
được là giả thuyết luân hồi giúp ta cắt
nghĩa được một sự kiện mà các tôn giáo
không chấp nhận nó không thể cắt nghĩa
được thỏa đáng. Đó là vấn đề
chế tài các hành vi thiện ác. Gia Tô giáo
cho rằng mỗi người chỉ có một đời,
sau khi chết th́ hoặc lên Thiên Đường, hoặc xuống
Địa Ngục, hoặc vào Tĩnh tội giới
(Purgatoire). Điều đó có thể đúng hay sai, chưa cần
bàn đến, chỉ biết rằng trên quả đất
này hiển nhiên có người thiện bị khổ sở,
kẻ ác được sung sướng.
Tại sao thế ? Nếu bảo rằng
đó là ư muốn của Chúa, th́ Chúa há chẳng bất công
lắm sao ? Nếu bảo rằng Chúa
không can thiệp đến việc trần thế, ai làm
ác, ai làm thiện, sẽ bị trừng phạt hoặc
được đền bù sau khi chết, th́ vẫn
chưa giải thích vấn đề tại sao ở đời
hiện tại có người lành bị khổ, có kẻ
ác được sung sướng.
Trái lại, đạo
Phật với giáo lư luân hồi cắt nghĩa rất dễ
dàng sự kiện trên. Kiếp trước gây nhân thiện
hay ác, th́ kiếp này hưởng quả sướng hay khổ.
Theo định luật Nhân Quả một cách
tự động, như trồng dưa th́ được
dưa, trồng đậu th́ được đậu,
không cần phải có sự can thiệp của vị thần
thánh nào cả.
3) Ngoài ra, giáo lư Luân Hồi c̣n
cho phép ta giải thích một số sự kiện mà cả
luật di truyền, khoa Tử Vi, và sự phát triển bất
thường của một hạch nội tiết (glande
endocrine) đều không thể giải thích được
một cách thỏa đáng :
- Tại sao hai đứa trẻ
cùng cha mẹ lại khác nhau về h́nh hài, tính t́nh, óc thông minh ? (luật di truyền
gần giải đáp được ổn thỏa,
nhưng vẫn chưa đủ).
- Tại sao hai đứa trẻ
sinh cùng một nơi, cùng một giờ, lại có số
phận khác nhau ? (trái
với khoa Tử Vi).
- Tại sao một đứa
trẻ mới vài tuổi đă học một biết
mười, đă có thể nói nhiều thứ ngoại ngữ,
hiểu toán học và triết học như người
lăo thành, biết làm thơ, đánh đàn ?
(hạch nội tiết không đủ
để cắt nghĩa những bậc thần đồng
đó, h́nh như chỉ ôn lại những ǵ đă học
trong một hay nhiều tiền kiếp).
4) Những lư lẽ trên đây
mới chỉ bênh vực giả thuyết Luân Hồi, nghĩa
là nếu ta chấp nhận nó th́ nhiều vấn đề
sẽ được giải thích thỏa đáng. Nhưng
thật ra chúng ta chưa cắt nghĩa do đâu mà có luân hồi,
và làm sao để chấm dứt luân hồi. Những điểm này sẽ được tŕnh
bầy ở đoạn Thập Nhị Nhân Duyên.
II. Lư Luận Phật
Học.
1) Những lời thuyết
pháp của đức Phật nhiều khi có vẻ mâu thuẫn
và nghịch lư. Tại sao vậy ?
- Người thường và cả
các nhà khoa học cho tới gần đây đều lư luận
trên nguyên lư đồng nhất của Aristote
: A là A, B là B, một sự việc không thể đồng
thời vừa là A, vừa là B.
- Biện chứng pháp của
Hegel, không hẳn khước từ nguyên lư đồng nhất,
đă cố gắng nối liền hai cái tương phản
thành một, trong quá tŕnh Chánh đề - Phản đề
- Tổng hợp. Ví dụ con gà đẻ ra trứng, rồi
quả trứng hủy thể để thành con gà, rồi
con gà lại đẻ ra trứng. Như vậy, tuy A vẫn
là A, không phải là B, nhưng sẽ biến chuyển thành
B. Nghĩa là khẳng định và phủ định là
hai giai đoạn của một cái luôn luôn biến chuyển,
chứ không phải hai trạng thái im ĺm bất động.
- Lư luận của nhà Phật
đi xa hơn nữa, nghĩa là có thể vừa khẳng
định, vừa phủ định. Vậy
ta chớ vội phê phán rằng các kinh điển Phật
giáo có lối lư luận h́nh như mâu thuẫn và nghịch
lư. Ví dụ câu sau đây trong kinh Kim Cang :
Cái gọi là Phật pháp tức chẳng là Phật pháp, nên
gọi là Phật pháp. Phật nói chúng sinh, tức chẳng
phải là chúng sinh, cho nên gọi là chúng sinh .
v . v .
- Lẽ tự nhiên, vấn
đề đặt ra là phải t́m hiểu tại sao Phật
giáo lại có lư luận biện chứng như vậy ? Hegel dùng biện chứng pháp để
chứng minh rằng ở đời chẳng có ǵ là
trường tồn : luật lệ, ư
niệm thiện ác, định chế xă hội, v . v . và vạch rơ rằng sở
dĩ mỗi sự vật phải biến chuyển sang
cái khác v́ có sẵn mầm mâu thuẫn nội tại.
Nhưng Phật giáo có một
lư do khác để xử dụng lư luận biện chứng.
Ta sẽ biết rằng mục đích rốt ráo của
Phật là đưa chúng sinh đến cảnh giới
Chân Như tuyệt đối, tức là Chân Không Diệu Hữu.
Nói một cách dễ hiểu hơn, cây cỏ, súc sinh, loài
người, Phật, tất cả chỉ là những hiện
tượng sai biệt của Tâm Vũ Trụ, sai biệt
chỉ v́ mỗi chủng loại có tâm ở tŕnh độ
mở mang khác nhau, nhưng tất cả đều đồng
thể, đồng tánh. Nhưng giảng ngay như thế
không được, v́ chúng sinh c̣n mê muội, nên đức
Phật phải dần dần, từng bước từng
bước một, phá cái chấp này, rồi phá đến
cái chấp kia, rồi phá luôn cả cái chấp vào những
điều Phật vừa giảng dạy. Đó là ư nghĩa
của câu :Ơ Chớ nhận lầm ngón
tay chỉ trăng làm mặt trăng.
2) Người Tây
phương thường dùng lư trí để t́m hiểu
uyên nguyên của Vũ trụ và ư nghĩa của cuộc
đời, nghĩa là để t́m hiểu cái Tuyệt
đối. Măi đến cuối thế kỷ thứ 19,
người Tây phương mới cảm thấy rằng
cái truyền thống duy lư mà họ thừa hưởng của
văn hóa cổ Hy Lạp không đủ cho phép họ đạt
tới Tuyệt đối. Do đó một số triết
gia Tây phương như Nietzsche, Sartre mới đề
xướng việc từ bỏ lư trí mà đem tâm thức
vào ḍng hiện sinh, thể nghiệm chính ḿnh để
đẩy ḍng hiện sinh của ḿnh nhập vào ḍng hiện
sinh của Vũ trụ. Và có thểƠ họ đă đạt
được mục đích đó, nhưng kết quả
lại là sự nổi loạn (Nietzsche), hoặc buồn
nôn (Sartre) v́ họ không có chí tu hành, không dám nghĩ rằng
nhập làm một với bản thể vũ trụ có thể
đưa họ đến cảnh giới siêu nhiên, đến
thành Tiên, thành Phật. Tức là họ vẫn c̣n
vương vít một chút lư trí phàm trần.
Người Đông
phương th́ không thế. Họ không phải là những triết gia
đi t́m Tuyệt Đối để hiểu, mà là những
tu sĩ cố gắng ḥa ḿnh vào Bản Thể tuyệt
đối bằng cách tu tâm dưỡng tánh. Vậy ta chớ
ngạc nhiên khi thấy Thiền tông, là phái đại diện
triệt để nhất tư tưởng Phật giáo,
gạt bỏ lư trí, gạt bỏ cả các kinh điển
(sau khi đă học) để cố gắng nhập Chân
Như bằng công phu ngồi Thiền, nhập định.
Nói một cách khác, nó là một phương
pháp khai ngộ hơn là một giáo lư khai tri. V́ nó chủ trương khai ngộ rồi sẽ
tri, không thể tri trước ngộ. Dưới
đây, chúng ta sẽ có dịp xem xét quan điểm đó
có đúng không, và đúng tới phần nào.
Phần
Thứ Nhất : Giáo Lư.
I. Sự Phân Hóa Tư Tưởng Phật
Giáo.
A. Nhận
xét và định nghĩa.
Ai cũng biết rằng hiện
nay Phật giáo chia làm 2 nghành chính là : Tiểu
thừa và Đại thừa. Thật ra, trên lịch
sử giáo hóa, vào thời đức Phật c̣n tại thế,
chưa hề có Tiểu thừa, Đại thừa đối
lập nhau. Tăt cả sự phân chia chỉ
phát sinh sau thời đức Phật nhập Niết Bàn.
1) Nói chung, Tiểu thừa
đối với giáo pháp hoặc hành pháp của Phật,
chuyên đứng về mặt h́nh thức mà giải thích : Phật quy định thế nào th́ cứ
thế mà thật hành, Phật nói thế nào th́ cứ thế
mà tiếp thụ. Bởi vậy phái này có vẻ
trung thực, và rất thịnh hành trong vài thế kỷ
sau khi Phật nhập Niết Bàn. Nhưng
đă quá câu nệ vào h́nh thức th́ tất nhiên sao lăng phần
tinh túy. Kết quả là nền Phật giáo đầy
hứng vị nhân sinh do đức Phật khai sáng, dần
dần trở thành khô cứng.
2) Để đối lại chủ
trương h́nh thức của Tiểu thừa (c̣n gọi
là Thượng Tọa bộ), một số đông tín
đồ, cả tăng lẫn tục, lập ra Đại
thừa (c̣n gọi Đại Chúng bộ), chủ trương
giải thích giáo pháp và giáo lư một cách rộng răi hơn, tự
do hơn. Họ nói rằng giáo pháp và giáo lư của
đức Phật cần phải phát triển rộng răi
khi hoàn cảnh đă thay đổi. Nghĩa
là, trên đại cương, Tiểu thừa th́ bảo thủ,
c̣n Đại thừa th́ tự do cấp tiến. Bây giờ xin xét lại sự bất đồng
giữa hai phái một cách chi tiết hơn.
B. Sự bất
đồng về h́nh thức.
1/ Tiểu thừa
lấy giáo hội làm bản vị, nên lấy tăng lữ
làm chủ. Tuy có
đủ 4 chúng : tỳ kheo, tỳ kheo
ni, ưu bà tắc, ưu bà ni, nhưng về mặt sinh hoạt
của giáo đoàn th́ chỉ lấy người xuất
gia làm chủ. Đại thừa, trái lại coi
trọng cả những đệ tử tại gia, chứng
cớ là bộ kinh Duy Ma Cật.
2/ Tiểu thừa có tính cách
chuyên môn, chuyên lưu tâm về giới luật thật tỷ
mỉ, và lấy việc chú thích các kinh điển sát với
nghĩa làm công tác chính, cho nên các bộ luận của Tiểu
thừa rất phiền toái, lư luận cứng nhắc. Trái lại, Đại thừa nhắm về đại
chúng nên các bộ luận của Đại thừa đơn
giản hơn, nhẹ về lư luận và nặng về trực
giác. Ví dụ niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ
Tát để cầu xin cứu giúp, hoặc tin vào bản
nguyện của Phật A Di Đà để
cầu văng sanh tịnh độ, là những giáo pháp
đơn giản và thông tục.
C. Sự bất
đồng về nội dung.
1/ Tiểu thừa lấy đại
đệ tử của Phật làm lư tưởng, v́ cho rằng
Phật là một nhân vật đặc biệt, người
thường không thể sánh kịp, dù có cố gắng tu
hành cũng chỉ đến được quả vị
A La Hán là cùng. Đại thừa, trái lại cho rằng
hết thẩy chúng sinh đều có Phật tính, nên lấy
Phật làm lư tưởng. Điều này được
khẳng định rơ ràng trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm
Tín Giải, có nói dụ Cùng Tử.
2/ Nhận xét về đức
Phật, Tiểu thừa coi Ngài là một nhân vật lịch
sử đă sống ở Ấn Độ cách đây 2500
năm, một nhân vật đặc biệt do công phu tu luyện
qua nhiều đời kiếp mới thành, nên không có một
Phật nào khác.Trái lại, Đại thừa đă chủ
trương rằng mọi người đều có Phật
tính nên không hạn chế một Phật ở một thời
gian và một thế giới nào, nhận có vô số Phật
ở khắp thế giới và khắp thời gian, như
đă nói ở kinh Lăng Nghiêm.
3/ Về Niết
Bàn, Tiểu thừa quan niệm là một cảnh hư vô
tuyệt diệt, hết cả phiền năo khổ đau. Trái lại, Đại
thừa giải thích Niết Bàn là đại nguyện cứu
độ chúng sinh, vĩnh viễn hoạt động mà
tâm không nhiễm trước. Do đó, Đại thừa
đề cao vai tṛ của các vị Bồ Tát như Địa
Tạng và Quán Thế Âm, nguyện cứu độ tất
cả chúng sinh trước khi thành Phật. Nói một cách
khác, Tiểu thừa nghĩ đến tự độ và
xuất thế là công việc chánh, c̣n Đại thừa th́ vừa
xuất thế, vừa nhập thế để cứu
độ chúng sinh.
V́ những điểm khác biệt
đó, nên Đại thừa có nhận xét khác Tiểu thừa
về Bản Thể Vũ Trụ, nhưng vẫn chung nhận xét với Tiểu thừa về
các hiện tượng thế giới trong đó chúng ta
đang sống.
II. Hiện
Tượng Luận.
1. Vô thường.
A. Vạn vật đều vô
thường, nghĩa là thay đổi luôn luôn. Đây là một
sự kiện mà kinh nghiệm hàng ngày, khoa học, cho chí các
tôn giáo khắp Đông Tây kim cổ đều
xác nhận. Động vật nào cũng sinh, rồi
già, rồi chết. Thực vật cũng
vậy. Đến các khoáng chất, núi non, sông bể, cũng
có sinh diệt, mặc dầu một đời người
không nh́n thấy, nhưng Địa lư học, Địa chất
học đều chứng minh rằng bể cũng đă
từng trồi lên thành lục địa, núi cũng đă
từng sụt xuống thành đại dương, trong
khoảng vài ngh́n năm hoặc vài triệu năm. Ngay
đến trái đất, mặt trời, mặt trăng,
các ngôi sao, cũng phải tuân theo định
luật sinh diệt nếu ta quan sát những khoảng thời
gian dài vài tỷ năm, vài chục tỷ năm.
B. Tính cách vô thường trên
đây, người phàm phu cũng biết. Sự hiểu
biết của nhà Phật sâu sắc hơn :
1/ Sự biến
đổi không phải lâu lâu mới xẩy ra, mà trong mỗi
giờ, mỗi phút, mỗi sát-na, nghĩa là không lúc nào ngừng,
mặc dầu ta không nhận thấy rơ rệt. Lăy một tỷ dụ sau
đây dẫn chứng : ta quay phim một
đóa hoa từ lúc hàm tiếu cho tới lúc nở tung, mỗi
phút một tấm ảnh, mất nửa ngày. Trong thời gian nửa ngày đó, ta chăm chú nh́n
hoa và lúc nào cũng có cảm tưởng rằng nó im ĺm bất
động. Nhưng nếu ta đem quay cuốn phim,
th́ sẽ thấy có sự thay đổi rất nhỏ từ
mỗi tấm ảnh sang tấm ảnh kế tiếp.
Muôn sự cũng
vậy, cây cỏ, thân thể ta luôn luôn thay đổi v́ các
tế bào sinh sinh diệt diệt không ngừng. Núi sông cũng vậy, v́ nắng
mưa, nóng lạnh, núi th́ luôn luôn bị ṃn mất đi từng
ḥn đá, từng hạt bụi, c̣n sông th́ chỗ lở chỗ
bồi, nước luôn luôn lưu chuyển từ nguồn
ra biển.
2/ Vậy vạn
sự vạn vật h́nh như hằng mà thật là chuyển. Hằng là tính chất
nhận lầm, chuyển mới là tính chất thật.
Từ ngàn xưa, Héraclite và kinh Dịch đă
tuyên bố chân lư đó. Phật học lấy
nó làm khởi điểm cho một cách nh́n vào các sự vật.
3/ Phật học lại c̣n
đặc sắc ở chỗ đi từ ư niệm vô
thường mà ai cũng dễ dàng chấp nhận, tới
ư niệm Vô Ngă, một ư niệm mà thế tục cho là phi
lư, là trái với nhận thức hiển nhiên.
2. Vô Ngă.
A. Thật vậy, ư niệm Vô
Ngă khó chấp nhận hơn ư niệm Vô Thường. Đành
rằng con sông phút này không y hệt con sông phút trước,
cây tùng phút này không y hệt cây tùng phút trước, thằng
Tôi lúc này, kể cả h́nh hài lẫn tâm tư, không y hệt
thằng Tôi phút trước, tháng trước, năm
trước, nhưng vẫn có con sông, cây tùng và thằng Tôi
chứ ? Làm sao lại bảo rằng
chúng không có tự ngă ?
B. Để trả lời câu hỏi
đó, kinh Phật có ghi lại cuộc đàm thoại giữa
vua Milanda và tu sĩ Nagasena (Tầu dịch là Na-tiên). Vua hỏi
tu sĩ tên là ǵ, và được trả lời
:
- Tâu bệ hạ, bọn đồng
đạo gọi tôi là Nagasena. Nhưng đó
chỉ là một dấu hiệu, một tiếng gọi.
Chớ ở đây không có người
Nagasena. V́ người Nagasena chỉ là một mớ
tóc, lông, da, thịt, xương v . v ., không có một cái nào đó là Nagasena cả.
Cũng vậy, cái xe của nhà vua gồm có gọng xe, bánh
xe, thùng xe, v . v ., chẳng
có bộ phận nào đó là cái xe cả. Vậy cái xe chỉ là một dấu hiệu, một tiếng
gọi, nó không có thực.
Xin nói rơ thêm về
điểm này một chút. Các bộ phận của h́nh hài ta
có thể mất đi, đổi thay đi. Ví dụ
tóc râu ta cạo đi, móng tay, móng chân ta cắt đi, chân
tay bị cưa đi của người thương binh,
con mắt, quả tim nay đă có thể thay đổi, rồi
sau này biết đâu khoa học tiến bộ sẽ có thể
thay đổi cả bộ óc ? Nói tóm lại, chẳng có cái bộ phận nào trong
người là trường tồn, là có thể gọi là
Ta.
C. Lối trả lời trên vẫn
chưa đủ. Nó chỉ cho ta thấy rằng không có cỗ
xe tự ngă, không có Nagasena tự ngă, mà chỉ có gọng xe,
bánh xe, thùng xe, chỉ có mớ tóc, lông, da, thịtƠ v . v . Tiến lên một
bước nữa, Phật giáo bảo rằng gọng xe,
thùng xe, tóc, lông, da, thịt cũng không có nốt, chỉ là
do tứ đại (địa, thủy, hỏa, phong) nghĩa
là 4 yếu tố : đặc, lỏng, nóng, động, giả
hợp mà thành ra. (Khoa học ngày nay cho ta biết rằng tứ
đại là các nguyên tử, hay nói cho đúng hơn là các
thành phần của nguyên tử như âm điện tử,
dương điện tử, và trung ḥa tử (electrons,
protons, neutrons) , v . v . C̣n Dịch
học và Lăo giáo th́ gọi nó là âm dương).
Cái mà người
ta thường gọi là Ta cũng vậy. Nó có 2 phần :
một phần sinh lư là Thân, và một phần tâm lư là Tâm.
1/ Thân ta, cũng
như mọi vật khác, đều do tứ đại giả
hợp (tế bào nguyên tử). Hơn thế nữa, trong
người tôi có thể đang có những nguyên tử hôm
trước, tháng trước đă từng ở trong
người đạo hữu, hoặc nhiều thế kỷ
trước đă từng ở trong người Quan Công,
Tào Tháo, Lê Lợi, Napoléon, chúng luôn luôn vận chuyển trong
vũ trụ, đâu có cái nào là của riêng Ta, là cái Ta h́nh hài ? (Moi corporel)
2/ C̣n cái Tâm của ta ? Tâm linh của ta là ǵ ?
Theo nhà Phật, tâm linh là sự hội họp của thất
t́nh : hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố,
dục với những tri giác suy tưởng, khái niệm,
phán đoán. Nhà Phật phân tích những thứ ấy ra làm
bốn loại, gọi là : thọ,
tưởng, hành, thức . Khi th́ ta vui, khi th́
ta buồn, chợt nghĩ đến cái này, rồi lại
chợt nghĩ đến cái khác, chẳng khác ǵ ḍng sông
luôn luôn trôi chẩy. Vậy nếu đem bỏ những
cái không phải là Ta đó đi, th́ c̣n cái ǵ trường tồn
có thể gọi là cái Ta tâm linh đâu ? (Moi psychique).
Vậy sắc (thân) và thọ,
tưởng, hành, thức (Tâm) gọi chung
là Ngũ Uẩn đều không có cái ǵ là Ta cả. Chỉ v́ nhân duyên giả hợp mà in tuồng
như có.
3/ Như vậy, dưới
con mắt siêu việt của đức Phật, mọi sự
vật trong vũ trụ, núi sông, cây cỏ và con người,
đều vô thường và vô ngă, tất cả chỉ là
sự giả hợp của ngũ uẩn mà thôi, sinh rồi
diệt, diệt rồi lại sinh, cái hiện tượng
sinh sinh diệt diệt đó tuân theo nguyên lư Nhân Duyên Quả
Báo thường gọi tắt là Nhân Quả.
3. Nhân duyên
quả báo.
a. Của vạn
pháp nói chung.
1/ Định nghĩa
: Nhân (nghĩa đen là hột giống) tức là những
sự vật có cái năng lực sinh sản ra Quả (nghĩa
đen là trái cây). Duyên là những sự vật
hỗ trợ cho Nhân sinh ra Quả. Tỷ như hột
lúa có cái sức phát sinh ra cây lúa, th́ hột lúa là Nhân, cây lúa
là Quả, mà tất cả những điều kiện thuận
tiện như đăt, nước, phân, v . v .
giúp cho hột lúa sinh ra cây lúa, đều
gọi là Duyên.
Nhân Duyên ḥa hợp
với nhau mới sinh ra vạn pháp. Nếu có Nhân mà
thiếu Duyên, th́ Nhân cũng không sinh ra Quả được.
Nếu chỉ có Duyên mà chẳng có Nhân th́ tất
nhiên cũng không có Quả.
2/ Tŕnh bầy.
a) Nguyên lư Nhân Quả chính là
nguyên lư Tăt Định (déterminisme) của khoa học ngày nay. Nó nói rằng có một số Nhân Duyên N.D. th́ tất nhiên phải
có Quả Q. Nếu thiếu sót các N.D. th́ Q sẽ không thành. Ví dụ có
hơi nước ở biển, sông, ao, hồ bốc lên
thành mây, hoặc có mây nhưng lại không gập lạnh,
th́ cũng không thành mưa.
Nguyên lư Nhân Quả chi phối
toàn thể vũ trụ vật lư, do đó có trật tự
trong vũ trụ, các hiện tượng không thể phát
sinh một cách bừa băi, nay thế này, mai thế khác. Đun
nước trên lửa th́ nước phải bốc
hơi, không thể biến thành băng được.
Không những thế giới vô cơ, mà cả thế giới
hữu cơ cũng vậy, trồng dưa được
dưa, trồng đậu được đậu.
b) Một mặt khác, nguyên lư
Nhân Quả của nhà Phật c̣n có ư nghĩa sâu sắc
hơn nguyên lư Tăt Định của khoa học. Không những
nó bảo rằng mỗi sự việc đều do nhân
duyên mà thành, nó c̣n nhấn mạnh đến ư niệm vô
ngă. Ví dụ một cây gỗ tùy theo một số nhân duyên
( trong đó có nhu cầu của giới tiêu thụ, những
nhu cầu này lại tùy thuộc một số điều
kiện khác liên miên bất tận như tŕnh độ giáo
dục, hưởng thụ nhà cao cửa rộng) mà cây gỗ
đó khi được tạo thành cái cửa, một số
nhân duyên khác kết hợp th́ thành cuộn giấy. Đó là ư
nghĩa của câu : Nhất thiết Pháp, nhân duyên sinh (tất
cả các Pháp đều do nhân duyên mà sinh ra), và của câu :
Ly nhân duyên biệt vô ngă (rời bỏ nhân duyên ra, không c̣n có
ǵ gọi là ngă cả).
3/ Nghiệp lực.
Cái nối liền Nhân với
Quả, cái sức tiềm tàng do Nhân phát ra để rồi
sinh ra Quả, được gọi là Nghiệp Lực. Có
Nhân mà Quả có khi không sinh ra, như chúng ta đă biết.
Nhưng trái với Quả, Nghiệp Lực bao giờ cũng
phát động một khi Nhân đă có. Thế cho nên, trong
giáo lư Nhân Quả, cái quan trọng cần chú ư không phải
là Quả mà là Nghiệp Lực. Và ta sẽ thấy Nghiệp
Lực có một vai tṛ hết sức quan trọng trong
đời sống của con người, và trong lịch
tŕnh cấu tạo, hoạt động và di chuyển Nghiệp
Lực từ kiếp này sang kiếp khác.
b. Của
con người nói riêng.
1/ Con người cũng
như vạn pháp, vừa là quả của một số
nhân duyên (tổ tiên, cha mẹ, gia đ́nh, xă hội, v . v .
), vừa tạo nhân, và những nhân ấy tất nhiên phát
ra nghiệp lực, rồi sẽ sinh ra quả nếu duyên
đầy đủ. Những nhân con người tạo
ra là hành vi, lời nói, ư nghĩ. Ví dụ chăm chỉ tằn
tiện th́ sẽ giầu có, lười biếng, hoang phí
th́ sẽ đói rách, nói tốt cho người th́ sẽ gây
được cảm t́nh, c̣n nói láo, nói dối, nói xấu
cho người th́ sẽ gây ra ác cảm. Trong ba nhân đó, ư
nghĩ quan trọng hơn cả. Phật giáo luận về
thiện ác đều căn cứ vào chỗ tâm địa
phát ra, chứ ít chú trọng tới sự tướng của
việc làm. Nếu v́ lợi ích cho người mà đánh mắng,
th́ hành vi ấy là hành vi thiện (ví dụ cha mẹ đánh
mắng con để dạy dỗ). Nếu v́ muốn làm
nhục người v́ thù oán, th́ đó là hành vi ác. Trái lại,
xu nịnh, nói ngọt, tưởng như hành vi thiện,
nhưng để cầu lợi, hoặc xúi bẩy, th́ là
hành vi ác.
Hơn thế nữa, chỉ
có ư niệm thiện hay ác trong trí óc, không thực hiện bằng
hành vi hay lời nói, cũng đủ gây nghiệp lực tốt
hay xấu. Ví dụ ḿnh thấy vợ bạn đẹp, nẩy
ra tà tâm ngoại t́nh, tuy không chiếm đoạt hoặc ve
văn, nhưng cũng đă là có tội rồi, cũng đă
gây nghiệp xấu rồi. Phép tu hành của nhà Phật là
một tà niệm phát sinh, th́ phải diệt nó liền.
2/ Nghiệp lực do nhân phát
sinh có hai loại : cộng nghiệp là toàn thể nghiệp
của mỗi loại chúng sinh, và tự nghiệp là nghiệp
riêng của mỗi cá nhân.
Có cộng nghiệp th́ có sự
hưởng thụ chung đồng ưu cộng lạc .
Có tự nghiệp th́ có sự hưởng thụ riêng, mỗi
người một phận. Ví dụ trong một nước
dân chủ th́ toàn dân được hưởng những
quyền lợi căn bản của con người,
nhưng vẫn có người sướng, người khổ.
Trong một nước chuyên chế độc tài cũng vậy,
toàn dân bị áp bức nói chung, nhưng vẫn có người
sướng, người khổ.
3/ Lư thuyết cộng nghiệp
của nhà Phật không giới hạn ở các định
chế như gia đ́nh, xă hội, nó mở rộng ra tới
vũ trụ. Phật giáo không cho rằng vũ trụ do một
vị Thượng Đế tạo ra, mà chính những cộng
nghiệp của chúng sinh đă tạo ra vũ trụ. Thế
giới Ta Bà này là thế giới của chúng sinh lẫn lộn
vừa thiện vừa ác. Địa ngục là thế giới
của những chúng sinh tội lỗi. Và Cực Lạc thế
giới là do nghiệp lực của chư Phật tạo
ra, sẽ đón tiếp những chúng sinh ở cơi Ta Bà này
đă cố gắng làm lành tránh dữ.
Phải thành thực nhận rằng
giáo lư này táo bạo quá, bất cứ ai có chút hiểu biết
khoa học đều không thể chấp nhận
được, nó c̣n khó chấp nhận hơn cả giáo
lư Gia Tô giáo cho rằng Thượng Đế tạo ra vũ
trụ. Ta phải gạt bỏ nghĩa đen của nó
đi, và cố gắng t́m hiểu nghĩa thực. Theo ư
tôi, nó không có nghĩa rằng nghiệp lực của chúng
sinh tạo ra vũ trụ (dưới đây Đại thừa
sẽ cho chúng ta một giải đáp thỏa đáng
hơn), mà chỉ có nghĩa rằng nghiệp lực tạo
ra vũ trụ theo như cách chúng ta nhận thức nó (tel
qu'il nous apparait), với hoàn cảnh cây cỏ núi sông, thiện
ác, sướng khổ mà chúng ta quen biết. Nếu hiểu
theo nghĩa đó, th́ chúng ta thấy ngay rằng giáo lư trên
trở nên một chân lư hiển nhiên. Vũ trụ trong
đó chúng ta đang sống, có sơn hà đại địa,
có ánh sáng, có âm thanh, có 3 kích thước trong không gian, có thời
gian trôi theo một chiều, v . v . Nhưng đối với
một loại chúng sinh khác, có những giác quan khác hẳn
chúng ta (v́ nghiệp lực của họ khác), rất có thể
họ coi vũ trụ này là một biển ba động,
không cây cỏ núi sông, một không gian có 4, 5 kích thước,
một thời gian trong đó hiện tại, quá khứ và
vị lai hợp nhất thành một hiện tại thường
hằng, v . v . Tại sao lại không thể được
? Cái vũ trụ quái đản đó vẫn là vũ trụ
này, nhưng một loại chúng sinh khác, có cộng nghiệp
khác, nên có giác quan khác, nên có nhận thức khác với chúng
ta, chỉ có thế thôi (Đặc biệt các vị Bồ Tát
có phép thần thông, mắt phàm chúng ta không thấy nổi,
nhưng các ngài vẫn sống chung quanh chúng ta, kiểm soát
hành vi và cứu độ những kẻ có thiện chí).
4/ Nghiệp lực không bị
giới hạn bởi thời gian. Trong giai đoạn sinh
mệnh hiện tại, cá nhân chịu quả báo của những
nghiệp ở trong kiếp này (hiện nghiệp) hoặc
đă tạo ra trong kiếp trước (túc nghiệp). Và
trong kiếp này ta đang tạo nghiệp mới, những
nghiệp này có thể chín trong kiếp, này hoặc đến
kiếp sau mới chín.
Như vậy, nghiệp bao trùm
cả quá khứ, hiện tại và vị lai. Đây là một
điểm cần đặc biệt chú ư. Giáo lư Nghiệp
Báo của đạo Phật không phải là thuyết Tiền
Định một cách máy móc, không cho rằng cuộc đời
mỗi người hoàn toàn do Định Mệnh an bài, người
thiện kiếp trước th́ kiếp này cứ khoanh tay
cũng được hưởng phước, kẻ ác
kiếp trước th́ kiếp này cố gắng đến
đâu cũng phải khổ sở. Trái lại, Phật
giáo cho rằng tuy ta chịu nghiệp của kiếp
trước - v́ nhân đă gieo rồi - nhưng ta có thể
sửa đổi nó một phần nào bằng nghiệp ở
kiếp này. Cũng ví như người gieo hạt xấu
vào mảnh đất xấu, đáng lẽ thâu hoạch rất
ít, nhưng nếu chịu chăm chỉ tát nước rắc
phân, th́ có thể số thu hoạch sẽ khả quan
hơn.
c. Thập
nhị nhân duyên.
1/ Bây giờ chúng ta xét đến
lịch tŕnh hoạt động và cấu tạo của
nghiệp lực trong chúng sinh hữu t́nh. Về vấn
đề này, nhà Phật đưa ra thuyết Thập Nhị
Nhân Duyên, gồm có :
1. Vô minh 2. Hành 3. Thức 4. Danh
sắc
5. Lục nhập 6. 7.Thọ 8. Ái
9. Thủ 10. Hữu 11. Sinh 12. Lăo tử.
Chúng ta có thể nghiên cứu
quá tŕnh của Thập Nhị Nhân Duyên bằng cách đi
xuôi từ Vô minh xuống tới Lăo tử, hay đi ngược
từ Lăo tử lên tới Vô minh. Hai cách đó tương
đương với nhau.
Dưới đây xin bắt
đầu bằng Lăo tử, tức là sự già và chết,
là biểu tượng của khổ đau. Nhưng tại
sao con người lại phải khổ đau, phải
già và chết ? V́ con người đă được sinh
ra (Sinh). Mà sở dĩ con người sinh ra là v́ sức mạnh
của nghiệp báo đă đưa tới sự hiện
hữu (Hữu) của sinh mệnh. Nguyên do của Hữu
là sự vương vấn (Thủ) vào nghiệp báo, bởi
v́ nếu không vương vào nghiệp, không tạo nên nghiệp
th́ sẽ không cần trả nghiệp. Mà sở dĩ kẹt
vào nghiệp bởi v́ ta có đam mê, có ước ao, có ái dục
(Ái). Nhưng tại sao có Ái ? Bởi v́ có cảm giác (Thọ)
gây nên do sự tiếp xúc (Xúc) giữa các cơ quan và đối
tượng của chúng là sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp (Lục nhập). Sở dĩ có Lục nhập là
v́ có sự hiện hữu của tâm lư và vật lư, vật
chất và tinh thần (Danh sắc), tức là năm uẩn
(sắc, thọ, tưởng, hành, thức) phát hiện từ
những chủng tử nằm trong A Lại Da Thức(Thức).
V́ có Thức nên có Hành tức là những tác động vô thức
của ư chí sinh tồn theo hướng vô minh. Mà chính v́ sự
thiếu trí tuệ mà có những tác động vô thức
đó, nghĩa là v́ Vô minh nên mới có Hành.
2/ Sự diễn bầy về
liên hệ Thập Nhị Nhân Duyên như trên là một sự
đơn giản hóa. Tuy nhiên, nếu ta không quên rằng mỗi
một nhân duyên trong số 12 nhân duyên không thể có một
bản chất và một sự hiện hữu riêng biệt
và độc lập, th́ ta sẽ có thể tránh được
mọi ngộ nhận. Các nhân duyên không chỉ nối tiếp
nhau thành một dọc dài mà phối hợp với nhau
như những khoanh tṛn tương giao. Ví dụ Vô minh tuy
gọi là sinh ra Hành, nhưng thực ra Hành có trong Vô minh, và
Hành cũng là Vô minh. Các nhân duyên khác cũng vậy, đều
có tính chất Vô minh cả. Vậy th́ tách rời Vô minh với
những nhân duyên khác đă là không đúng, huống hồ
cho rằng Vô minh đứng đầu một hàng dọc
nhân quả nối tiếp nhau th́ lại càng không đúng. Vô
minh là một nhân duyên, để đứng đầu Thập
Nhị Nhân Duyên, nhưng không có nghĩa nó là nguyên nhân đầu
tiên. Ư niệm về nguyên nhân đầu tiên chống ngay lại
ư niệm nhân duyên, là một giáo lư duyên sinh theo đó mỗi
hiện tượng đồng thời là nhân và là quả.
3/ Dưới sự am hiểu
đó th́ ta có thể h́nh dung lịch tŕnh hoạt động
và cấu tạo của nghiệp lực trong chuỗi dài
vô tận các kiếp quá khứ, hiện tại và vị lai
như sau :
Trong quá khứ, Vô minh và Hành là
nhân sinh ra quả trong kiếp hiện tại, là 10 nhân duyên
kia từ Thức cho đến Sinh rồi Lăo tử.
Trong kiếp hiện tại, 10
nhân duyên ấy lại là nhân sinh ra quả là Vô minh và Hành cho
kiếp vị lai.
Và ṿng luẩn quẩn đó cứ
tiếp diễn măi măi từ kiếp nọ sang kiếp kia,
trừ phi tu hành để phá vỡ nó.
III. Bản Thể Luận.
Như trên kia đă nói, giáo lư
đạo Phật chỉ nhằm mục đích duy nhất
là giải thoát chúng sinh khỏi phiền năo và luân hồi. Đức
Phật đă nói : Cũng như nước trong biển cả
chỉ có một vị mặn mà thôi, mùi vị duy nhất
của Chánh Pháp là sự giải thoát. Do đó ngài ít đả
động đến những vấn đề siêu h́nh mà
ngài cho là vô ích, như Vũ trụ hữu hạn hay vô hạn
? Linh hồn bất diệt hay phù du ? Về sau, để
đối phó với các ngoại đạo, các môn đồ
mới phát triển một số giáo huấn siêu đẳng
của ngài ghi trong kinh Bát Nhă, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm thành một
hệ thống Vũ trụ quan, một hệ thống Bản
thể luận, nghĩa là đi t́m cái bản thể nằm
dưới các hiện tượng vô thường và vô ngă,
và lư Nhân Duyên Quả Báo.
1/ Bản Thể
là Chân Không.
Trước hết ta hăy tự
hỏi : Thế giới và vạn sự, vạn vật
trong đó (theo danh từ Phật giáo gọi là pháp giới)
là thực hay hư ? Kinh Kim Cang dạy : Các pháp vốn không
thực, không hư. Phàm phu chúng ta có quyền sửng sốt
trước ư kiến bí hiểm đó, có vẻ là vu vơ,
nhưng khoa học hiện đại cũng gần tiến
đến nhận xét đó khi nghiên cứu các cực vi gọi
là Quarks, là thành phần tối hậu của nguyên tử.
Chúng biến hiện như ma quái, vừa là hạt vật
chất (corpuscule), vừa là ba động (onde), đến
nỗi nhà bác học Eddington đă thở dài than rằng :
Cái vũ trụ này h́nh như không phải là một bộ
máy đồng hồ, mà nó giống như một Tâm tưởng
lớn th́ đúng hơn.
Như vậy, Phật giáo Đại
thừa quan niệm rằng tất cả các hiện tượng
mà ta thường tưởng là có, thật ra là không,
nhưng cũng đồng thời công nhận rằng
dưới những lớp hiện tượng muôn h́nh vạn
trạng, luôn luôn sinh diệt có một cái ǵ bất biến
hằng c̣n. Mà cái bất biến hằng c̣n đó không thể
dùng một danh từ nào thích hợp để diễn tả
được, ngoài chữ KHÔNG ra. Nhưng cái Không đó
không phải là cái không trống rổng, hư vô, chỉ
toàn phủ-định-tính, mà là cái không linh động, cái
không Diệu Hữu. Tuy cái không đó phủ định ư
nghĩa hiện tượng, nhưng một khi đă đạt
đến diệu hữu th́ lại từ căn để
của hiện tượng làm cho ư nghĩa hiện tượng
sống lại. Đó là thuyết được mệnh danh
là Chân Không Diệu Hữu, là thực tướng của
các Pháp, và đă được đức Thế Tôn giải
thích như sau trong Thắng Thiên Vương Bát Nhă : Chân
Như của vạn pháp vượt ra ngoài văn tự,
xa ĺa ṿng ngôn ngữ, tất cả lời nói không thể
nào miêu tả được ; ngoài cả mọi sự hí
luận, tuyệt hết mọi sự phân biệt, không có
thử, không có bỉ ; xa ĺa mọi h́nh tướng, t́m xét
cũng không được, không thể dùng thức mà biết
được ; nó trụ ở chỗ vô sở trụ, vắng
lặng, trong sáng ; không có ngă, t́m không thể được,
không lấy không bỏ. Nó là đệ nhất tính thường
bất biến dù có Phật ra đời hay không cái tính
đó vẫn thế.
(Theo chúng tôi thiển nghĩ,
th́ đó là cái mà vài triết gia Âu Tây tạm gọi là Elan
vital, một khi nó đă tác động th́ tạo ra vũ trụ).
2. Từ
Chân Không biến thành Diệu Hữu.
Đă biết rằng pháp giới
là Chân Không Diệu Hữu, bây giờ chúng ta tự hỏi
cái ǵ đă làm cho Chân Không biến thành Diệu Hữu ? Câu hỏi
này được trả lời bằng lư Duy Tâm Sở Hiện,
có thể thâu gồm trong mấy chữ : Chân Tâm, Bất
Giác, Động Niệm, Quang Minh, Biến Hiện, Tương
ng.
Do sự xuy động của
những ngọn gió Vô Minh Bất Giác, th́ biển Tâm động
niệm, vọng động và nổi sóng, biến thành muôn
vạn những đợt sóng nhấp nhô chập chùng, mỗi
đợt tự ĺa ḿnh ra khỏi biển cả. Động
niệm ấy cũng làm phát xuất vô lượng quang
minh cùng quang minh quyến thuộc, những quang minh này kết
tập lại, biến hiện thành những thân căn và
khí thế giới, và thân căn cùng khí thế giới bao giờ
cũng tương ứng nghiệp lực của sự
khởi niệm. Do đó, căn và cảnh không thể ĺa
nhau được, v́ đều là sự biến hiện
của cái Diệu Tâm nhiệm mầu mà thôi.
Vậy pháp giới chỉ là do
tự tâm biến hiện, chỉ là một trường biến
hiện (champ de manifestation như từ trường champ
magnétique), nó liên miên bất tuyệt Tương Tợ
Tương Tục (produisant des images qui s'apparentent et se
suivent sans interruption) của Tâm chuyển thành Thức. Rồi
trong cái màn ảo ảnh liên miên và bao la đó, vọng thức
của con người cắt xén lấy một số ảnh
tượng có vẻ tương tợ tương tục.
V́ chúng biến hiện tương tợ tương tục,
nên chúng h́nh như có khoác một h́nh tướng vọng thức,
con người bèn chộp lấy h́nh tướng đó, tạo
thành một ư niệm rồi khoác cho nó một tên gọi
(danh tướng), ôm khư khư lấy nó, nhất định
coi nó là có, cho nó là vật tồn tại độc lập
và riêng biệt với ḿnh. Trong khi thực sự, chúng chỉ
là những ảnh tượng biến hiện của tâm
thức ḿnh mà thôi. Để cho dễ hiểu, có thể ví những
tướng trong pháp giới với những h́nh ảnh ta
thấy trên màn bạc. Ta có cảm tưởng rằng có
nhân vật, có núi sông cây cỏ xuất hiện, nhưng thật
ra chỉ là những h́nh ảnh do máy camera chiếu ra. Cũng
vậy, những nhân vật , núi sông cây cỏ mà chúng ta
tưởng là có thật, chỉ là h́nh ảnh do tâm thức
ta chiếu ra mà thôi. Và sở dĩ quư đạo hữu và
tôi đều thấy người là người, cây là cây,
chỉ v́ chúng ta có cộng nghiệp giống nhau. Nhưng một
con chó, hoặc một vị Bồ Tát sẽ thấy khác,
con chó không thấy quyển sách là quyển sách, và vị Bồ
Tát thấy được núi Tu Di mà chúng ta không thấy. V́
tâm thức con chó là một máy camera khác, và tâm thức vị
Bồ Tát cũng lại là một máy camera khác.
Do đó, xét đến cùng, th́
mọi sự vật chỉ là những ư niệm, những
ngôn từ danh tướng của vọng thức của
chúng sinh. Vi trần chẳng phải là vi trần, chỉ là
một ư niệm về vi trần, nên tạm gọi là vi trần
thôi. Thế giới chẳng phải là thế giới, chỉ
là ư niệm về thế giới, nên tạm gọi là thế
giới.
3. Quá tŕnh Hiện
Tượng Hóa có nhiều bậc.
Ta hiểu rằng sự chuyển
biến từ Chân Không thành Diệu Hữu hoàn toàn do tâm vọng
tưởng. Quá tŕnh chuyển biến đó (từ bản
thể noumène đến hiện tượng phénomène) chuyển
dần dần từ vi tế tới thô kệch. Lúc đầu
th́ Tâm vô minh mới chuyển thành một phần gọi là
Năng Hiện, và một phần gọi là Sở Hiện,
hăy c̣n vi tế trong tâm thức một số Bồ Tát nhỏ
từ đệ bát địa trở xuống. Nhưng
đến chúng sinh th́ chuyển dần dần từ chỗ
vi tế vô h́nh tới chỗ thô kệch hữu h́nh.
Và mỗi chúng sinh trở thành một
lăng kính ảnh hiện. V́ nó là một cơn lốc vô
minh, nên có ảnh hiện vũ trụ, ảnh hiện thân
căn của ḿnh, ảnh hiện nên cái ảo giác là có ngă.
Chấp là có ngă, rồi chấp là có pháp, có vật, có hiện
tượng bên ngoài. Mực độ ảnh hiện của
mỗi chúng sinh, của mỗi loài chúng sinh th́ có nhiều
khác biệt, nhưng mỗi mỗi đều có ảnh hiện.
Và tùy theo nghiệp lực, mỗi chúng sinh đều ảnh
hiện vũ trụ thành một ảnh tượng riêng
biệt của ḿnh. Ảnh tượng về không gian, thời
gian, về các hiện tượng như núi sông cây cỏ cũng
khác biệt. Chánh báo, y báo đều khác biệt. Tóm lại,
tất cả mọi cảnh giới, từ thô kệch
đến vi diệu, từ loại côn trùng, chó mèo, con
người, đến Bồ Tát, Phật, đều
như huyễn, đều chỉ là biến hiện, đều
không thật, không hư, v́ đều là vọng hiện do
nghiệp lực chiêu cảm. Nhưng chư Phật và
đại Bồ Tát đă hết nghiệp lực th́ sẽ
chuyển được tất cả Vọng ấy, sẽ
thấy toàn Vọng tức là Chân, và mọi pháp, mọi cảnh
giới vốn như như, bản lai rỗng lặng.
Nói một cách khác, tuy Phật
giáo cho biết là danh lợi, liên hệ gia đ́nh, kể cả
sinh tử đại sự, tất cả đều
như huyễn, nhưng lại dạy thêm rằng Vọng
là biểu hiện của Chân, và Chân là căn bản của
Vọng. Ví dụ không có nước th́ không thể có sóng, và
không thấy sóng th́ cũng không thể biết có nước.
Đây là một giáo lư vô cùng quan trọng của đạo Phật
: là không nên v́ nhu cầu sanh sống mà sao lăng cứu cánh giải
thoát, cũng không nên v́ cứu cánh giải thoát mà sao lăng sự
sinh hoạt hàng ngày, sao lăng bổn phận làm người
công dân, làm người con, làm người chồng, làm
người cha (hai nhiệm vụ cuối này không áp dụng
cho tăng ni để họ dễ dàng hơn trong công việc
hoằng dương Phật pháp).
CÁC PHÁP MÔN.
1- SO SÁNH THIỀN VÀ TỊNH ĐỘ.
Tuy có rất nhiều pháp môn tu hành,
nhưng tựu trung chỉ có hai xu hướng h́nh như
trái ngược nhau, là xu hướng dựa vào tự lực
và xu hướng dựa vào tha lực. Tiêu biểu cho hai xu
hướng đó, được phổ biến rộng
răi nhất là Thiền tông và Tịnh độ tông. Nhiều
người phân vân không biết nên lựa chọn bên nào, v́
khi đọc các sách giảng về Thiền tông và Tịnh
độ tông, th́ thường thấy trong đó những
ư kiến thiên lệch, bên nào cũng dành phần hơn về
ḿnh và chê đối phương là kém về phương diện
này hay phương diện nọ.
Muốn giải quyết phân
vân đó, ta cần phải tự ḿnh t́m hiểu ba vấn
đề :
1. Lập trường
3. Kết quả
I. Vấn đề thứ nhất
h́nh như không có ǵ cần cân nhắc. Trên lập trường
hiển nhiên Thiền tông là chính thắng, v́ nó chủ
trương trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật.
Tâm ḿnh chính là Phật rồi, việc ǵ phải cầu Phật
ở ngoài ? Thế cho nên, đối với câu hỏi
"Phật là ǵ ?", các thiền sư đă có những
câu trả lời rất ngổ ngáo như sau :
Phật hả ? ở trong chùa ấy,
Bằng đất, thếp vàng
Đó không phải là Phật,
Đừng nói chuyện tào lao.
C̣n Tịnh độ tông, ỷ
lại vào sự cứu độ của đức Phật,
trên nguyên tắc th́ không đúng, nhưng trên thực tế
th́ lầm tưởng rằng có đức Phật giúp
đỡ ḿnh cũng không hại ǵ (với điều kiện
sẽ tŕnh bầy sau), lại có lợi là đằng khác.
Thật vậy, người tu Tịnh độ nghĩ rằng
: Ḿnh vốn là kẻ phàm phu, đầy nghiệp chướng,
khó ḷng tự giải thoát được. Nhưng có đức
Phật từ bi, Ngài sẵn ḷng cứu độ ta, tại
sao không cầu khẩn Ngài ? Và sự tin tưởng này, mặc
dầu không đúng trên cương vị khách quan, nhưng
lại rất đúng trên cương vị chủ quan, v́
sẽ giúp đỡ hắn vững tâm tiến trên
đường đạo. Ví dụ có người sợ
ma, ban đêm không dám đi qua những cánh đồng vắng.
Một người bạn hắn khoe rằng mới xin
được của một ông đạo nổi tiếng
trên Thất Sơn một lá bùa hộ mạng rất linh
nghiệm, đeo nó vào người th́ không tà ma nào dám đến
gần. Anh sợ ma bèn năn nỉ xin lại, và anh
được anh bạn khẳng khái tặng cho. Thực
ra, lá bùa đó chỉ là một tờ giấy bản trên
đó chính anh bạn đă vẽ những đường
ngoằn ngoèo để làm ra vẻ bí hiểm. Và tṛ chơi
nghịch ngợm của anh bạn đă đem lại kết
quả kỳ diệu : từ khi đeo "lá bùa"
đó trong người, anh sợ ma trở thành người
bạo dạn nhất trong làng !
Trên đây chúng tôi đă dè dặt
nói rằng sự lầm tin đức Phật giúp đỡ
ḿnh tu thành chánh quả không có hại ǵ, nhưng với một
điều kiện. Là sự tin tưởng đó phải
chánh đạo, giúp đỡ ḿnh tu tâm sửa tánh, làm
điều thiện, bỏ điều ác, chứ không phải
giúp đỡ ḿnh thành công trong những mưu đồ giầu
sang, ích kỷ hại nhân. Tin rằng thực có Bồ Tát
Quán Thế Âm cứu giúp người lâm nạn th́
được, và thực sự người có đức
tin đủ mạnh sẽ được thoát khỏi nạn.
Tin rằng thực có Phật A Di Đà sẽ đến
đón người lành về Tây Phương Cực Lạc
thế giới th́ được, và thực sự người
lành lúc lâm chung sẽ thấy linh hồn ḿnh được
siêu sinh Tịnh độ. Nhưng tin rằng có đức
Phật hay Bồ Tát sẽ giúp ḿnh buôn may bán đắt với
những mánh khóe giảo hoạt, hoặc thăng quan tiến
chức bằng những phương tiện bất chánh,
th́ chỉ là sự tin tưởng quàng xiên, tiết mạn
thần linh.
II. Bây giờ xin bàn sang vấn
đề so sánh các phương pháp tu hành của Thiền
tông và Tịnh Độ tông. Là một phật tử tu tại
gia, chúng tôi không dám lạm bàn đến chương tŕnh huấn
luyện trong các Thiền viện và Niệm Phật
đường. Nhưng đại khái chúng tôi cũng nhận
thấy sự khác biệt sau đây :
Thiền tông chủ
trương lấy lư luận thông thường (cái mà nay ta
gọi là những phương pháp phân tích, tổng hợp,
diễn dịch và qui nạp : analyse, synthèse, déduction et
induction) để t́m hiểu các giáo lư đạo Phật.
Rồi đến khi những giáo lư cao siêu ngoài tầm hiểu
biết của lư luận thông thường, như Bản
Thể Chân Như trong mỗi chúng sanh, th́ phải dùng trực
giác (intuition) để chứng nghiệm rằng Tâm tức
Phật, Phật tức Tâm. Nói tóm lại, phương pháp
Thiền tông chú trọng đến sự suy nghĩ, hoặc
bằng hữu-ư-thức (conscious mind) luôn luôn chủ động,
tích cực, hoặc bằng tiềm thức (subconscious
mind), để dần dần vứt bỏ những thành
kiến cũ, tự tạo cho ḿnh một nhân sinh quan và vũ
trụ quan.
Với chủ trương gột
rửa lần lần vọng tâm để đạt tới
Chơn Tâm, phép tu Thiền tông gồm 2 bước chính là Định
và Tuệ. Định là cột các vọng tưởng lại,
không cho chúng tung hoành nữa, tức là điều tâm.
Nhưng muốn điều tâm, trước hết phải
điều thân và điều tức. Điều thân là giữ
thân bất động cố gắng đừng để
cho nó thọ những thức của giác quan nữa : không
nh́n cái ǵ cả, không nghe thấy ǵ nữa, v . v . Tư thế
tốt nhất cho việc điều thân là ngồi kiết
già hoặc bán già. Điều tức là điều ḥa hô hấp,
thở thật nhẹ nhàng và chậm chạp, mục
đích là để cho bộ óc nhận được ít
dưỡng khí, có thể bớt lăng xăng loạn
tưởng. Bộ óc nhờ đó đổi mới, hay
nói theo danh từ cách mạng, là làm một cuộc "lột
xác" hoàn toàn.
Bước thứ hai là Tuệ.
Định chuẩn bị cho việc khai Tuệ, cũng ví
như mặt nước hồ có im lặng, không bị gợn
sóng, th́ mặt trăng mới có thể soi h́nh lên rơ ràng. Mặc
dầu vậy, cũng phải mất công vén mây mù che lấp
mặt trăng. Vén đám mây mù, tức là gột bỏ những
ư tưởng điên đảo, lấy giả làm chân,
đă từ lâu đời nhiều kiếp che lấp
Chơn Tâm. Đó là công việc Khai Tuệ đ̣i hỏi người
tu Thiền phải suy nghĩ, luôn luôn chủ động,
tích cực.
Trái lại, người tu theo
Tịnh Độ tông có một thái độ thụ động
hơn, chỉ việc tụng kinh niệm Phật là đủ.
Nói rằng thụ động th́ không đúng hẳn, v́ việc
tụng kinh niệm Phật cũng đ̣i hỏi một ư
chí kiên cường để tín, nguyện và hành. Điều
mà chúng tôi muốn nói là người tu theo Tịnh Độ
tông chỉ cần chăm chỉ tụng kinh niệm Phật
đều đều mỗi ngày, chứ không cần phải
nát óc suy nghĩ như người tu theo Thiền tông.
Nói tóm lại, trong khi phép tu Thiền
tông đ̣i hỏi hai công phu rất chật vật là Định
và Tuệ, th́ phép tu Tịnh Độ tông thay thế bằng một
công phu có vẻ nhẹ nhàng hơn là tụng kinh niệm Phật.
Lẽ tự nhiên, người tu Tịnh Độ cũng nhiều
khi thực hành những công phu điều thân, điều
tức và điều tâm, nhưng điểm đặc biệt
là ít khi làm công phu suy nghĩ như bên Thiền tông.
III. Kết quả sẽ
như thế nào ? Theo sự so sánh phương pháp của
hai bên vừa tŕnh bầy, th́ ta có thể nghĩ rằng tất
nhiên Thiền tông phải có kết quả, nếu không nhanh
chóng hơn, th́ cũng chắc chắn hơn là Tịnh Độ
tông. Thật vậy, một bên đ̣i hỏi công phu suy nghĩ
rất chật vật, một bên th́ nhàn hạ hơn nhiều,
làm sao lại có thể có kết quả bằng nhau
được ? Cũng như hai sinh viên, một người
cặm cụi học bài và suy nghĩ, một người
chỉ ngồi nghe thầy giảng, tất nhiên người
thứ nhất phải thành công hơn chứ ?
Lư luận đó rất
đúng, nhưng chỉ lư luận thôi. Ta chớ nên quên rằng
đối với các vấn đề tâm lư, lư luận nhiều
khi chẳng ăn thua ǵ cả. Vậy tốt hơn là chúng
ta thử theo dơi, trên thực tế, xem người tu mỗi
cách đạt tới hai mục đích của việc tu
hành như thế nào ?
Mục đích thứ nhất
là thắng được mọi phiền năo ngay trong kiếp
này. Người tu thiền tông đạt được mục
đích đó sau khi hiểu rơ chúng chỉ là kết quả
của cái Chấp Ngă và những cái bám vào ta như tiền
tài, danh vọng, t́nh yêu v . v . , rằng chúng đều vô
thường, vô ngă, không có thực chất, không phải là
thực ta. Vậy sự đắc thất những cái
đó chẳng có ǵ quan trọng cả, chỉ v́ ta mê muội
nên mới quan-trọng-hóa chúng. Cũng ví như khi đang
xem tuồng hát, ta lo sợ cho vai trung thần bị tai họa,
và tức giận khi thấy vai nịnh thần lộng quyền,
nhưng khi vở tuồng hạ màn, ta biết rằng những
cảnh đó chỉ là cảnh giả. Hiểu rơ như thế
rồi, nghĩa là phá được cái Chấp Ngă, th́ tâm
luôn luôn được an lạc, không c̣n bị ô nhiễm bởi
những thay đổi hoàn cảnh nữa.
Người tu Tịnh Độ
tông có thể không có sự hiểu biết rành rọt
như thế. Nhưng kỳ diệu hơn, hắn chỉ
nghĩ đến đức Phật là tự nhiên mọi
phiền năo đều tan biến. Thật vậy, các tâm sở
vui buồn sướng khổ không thể cùng trong một
lúc ngự trị trong tâm thức. Khi ta niệm Quán Thế
Âm Bồ Tát th́, đúng như trong phẩm Phổ Môn kinh
Liên Hoa đă chỉ rơ, mọi tư tưởng lo sợ,
buồn rầu (được mô tả là quỷ La Sát, rồng,
cá, hỏa hoạn, thủy nạn, gông cùm, v . v .) bị xua
đuổi trước nụ cười từ bi vô
lượng của Ngài, như người mẹ âu yếm
che chở cho con. Khi ta tụng kinh A Di Đà, th́ trước mắt
ta hiện lên h́nh ảnh huy hoàng rực rỡ của Cực
Lạc thế giới, có lâu đài xây bằng vàng bạc,
lưu ly, san hô, mă năo, có ao thất bảo, nước bát
công đức, hoa Mạn Đà La rơi xuống như
mưa, các thứ chim đẹp ca hót vang lừng, v . v .
Như vậy, có thể nói rằng mỗi phút tụng kinh
niệm Phật là một phút được sống thực
sự trong tiên cảnh rồi. Và ta hiểu rằng có nhiều
bà mê đồng bóng, tuy là tà đạo, nhưng cũng
đạt tới tiên cảnh đó. Đồng bóng là tà đạo,
v́ nhờ vào tiếng hát cung đàn mê hoặc giác quan, c̣n tu
Tịnh Độ là chánh đạo v́ nhờ vào h́nh ảnh
đức Phật và Tịnh Độ xua đuổi ác tưởng,
đem lại thiện tưởng. Cả hai hành vi : ngồi
đồng và niệm Phật, mặc dầu chánh tà khác
nhau, đều có kết quả tương tự v́ cùng dựa
trên một sự kiện tâm lư mà chúng tôi vừa nhắc tới
ở trên :"Trong một lúc không thể có hai tâm sở
cùng ngự trị". Tu theo Tịnh Độ tông, là luôn luôn
để cho tâm trí ḿnh chỉ có những thiện tưởng,
không c̣n chỗ thừa cho các ác tưởng xen lẫn vào nữa.
Cũng ví như sự kiện vật lư sau đây : vào mùa
đông tháng rét, nếu ta đốt ḷ sưởi trong
pḥng, th́ hơi nóng tràn ngập, không c̣n chỗ cho hơi lạnh
len lỏi vào nữa.
Vậy về mục đích thứ
nhất là thắng được mọi phiền năo trong
kiếp hiện tại, th́ tu theo pháp môn nào cũng đạt
được kết quả tương đương.
Miễn là có thành tâm thiện chí, th́ xem rộng các kinh sách và
khổ công suy nghĩ, hay chỉ chăm chú niệm một
câu "Nam Mô A Di Đà Phật" hoặc "Nam Mô Quán Thế
Âm Bồ Tát" cũng sẽ được thấy ḷng
lâng lâng thanh thản.
C̣n mục đích thứ hai của
sự tu hành là hy vọng sẽ được giải
thoát khỏi luân hồi, hoặc nói cho rộng nghĩa
hơn là không những phá được cái Chấp Ngă mà
c̣n phá được cả cái Chấp Pháp nữa, hiểu
rơ lẽ Sắc Không, ḥa ḿnh với bản thể Chơn
như của Vũ Trụ, ra ngoài ṿng cương tỏa của
không gian và thời gian, th́ thế nào ? Tu hành có thể biến
một phàm nhân đáng lẽ phải măi măi trầm luân trong
ṿng sinh tử, thành một siêu nhân đoạt quyền tạo
hóa được không ?
"Được", Thiền
tông và Tịnh Độ tông đồng thanh trả lời
như thế, Thiền tông gọi sự biến đổi
kỳ lạ đó là "Ngộ", và Tịnh Độ tông
gọi nó là tới cơi Núy Ta Ra Sam Da Tam Bồ Đề, lên ngôi
"Bất Thoái".
Muốn có một ư niệm
đại khái về sự biến đổi đó có thể
thực hiện được không, và như thế nào,
xin đưa ra hai ví dụ tương tự lấy trong
khoa học :
Ví dụ thứ nhất : thuyết
Tương Đối của Einstein đă đem lại cho các
khoa học gia một cách nh́n mới về cơ cấu của
Vũ Trụ, đă chứng minh rằng năng lượng
và vật chất có thể tương hoán, rằng mỗi
khối lượng bẻ cong không gian chung quanh nó, rằng
thời gian và không gian không phải là những khung bất
di bất dịch, trái lại co giăn nếu người quan
sát và hiện tượng bị quan sát ở trên những hệ
thống chuyển động khác nhau, v . v . Để
được kết quả vĩ đại đó,
Einstein đă phải thoát ly ra khỏi những tư tưởng
của khoa học cổ điển đă được
các bậc tiền bối như Newton, Lavoisier , Berthelot, coi
là những chơn lư bất di bất dịch của khoa học
thực nghiệm.
Cũng vậy, người tu
Thiền muốn thành Phật phải thoát ly những kiến
thức thông thường do giác quan đem lại, phá cái Chấp
Pháp, hiểu rơ lẽ Sắc Không. Cả hai người :
nhà tu Thiền tông và Einstein đều đă làm công việc
"lột xác", nhưng trong khi Einstein mới chỉ lột
xác để nh́n Vũ Trụ giác quan với một con mắt
tinh tường hơn, th́ nhà tu Thiền tông đă lột
xác để xóa bỏ Vũ Trụ giác quan và nhập vào bản
thể Chơn Như của nó.
Ví dụ thứ hai : Nhăn thức
và Nhĩ thức của con người không tiếp nhận
được những luồng sóng từ điện
ngoài một phạm vi rất nhỏ hẹp. Nhưng sau khi
chế tạo được các máy truyền thanh và truyền
h́nh rung động cùng một tần số với các
đài phát thanh và phát h́nh, rồi chế biến những
làn sóng từ điện đó thành những làn sóng từ
điện khác trong phạm vi thích hợp với giác quan của
con người, th́ sự viễn thông đă trở nên một
sự kiện rất tầm thường.
Cũng vậy, phàm nhân chúng ta
không cảm thông được làn sóng tâm ư của chư Phật
mười phương, nên vẫn bị trầm luân trong
bể khổ. Trong kinh "Phật thuyết A Di Đà" nói
rằng đức Phật A Di Đà hiện đang thuyết
pháp, nếu chúng ta không nghe thấy ǵ th́ lỗi tại tâm
ta không rung cảm cùng một nhịp với tâm Ngài, chứ
có phải tại không có đức Phật A Di Đà hiện
đang thuyết pháp đâu ? Và trong Nghi thức tụng niệm,
đoạn Quán tưởng, cũng có câu :
Phật,
chúng sanh tánh thường rỗng lặng,
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn.
chính là nói về việc đó.
Phàm nhân không cảm thông nổi, nhưng người
chăm chú nghĩ đến đức Phật th́ có thể
dần dần thay đổi tần số (fréquence) của
làn sóng tâm ư của ḿnh cho nó trùng hợp với tần số
của làn sóng tâm ư của đức Phật. Và lúc đó hắn
cũng được tương tự như người
tu Thiền tông đă đại ngộ. Bởi vậy có kệ
rằng :
Tham
thiền niệm Phật lư vẫn đồng
Rơ ràng xem kỹ thấy đều không.
Công đến tự nhiên toàn thể hiện
Xuân về như trước trăm hoa hồng.
Kết
Luận.
Sau khi đă so sánh Thiền tông
và Tịnh Độ tông về ba khía cạnh : lập trường,
phương pháp và kết quả, chúng tôi đă đi tới
hai kết luận, một tiêu cực, một tích cực.
Kết luận tiêu cực: Vấn
đề nêu ra ở đầu bài :"Nên chọn pháp môn
nào ?" không thể giải quyết nhất luật cho mọi
người. Nó tùy thuộc vào nhiều yếu tố phức
tạp như bẩm tính thông minh, giáo dục gia đ́nh,
hoàn cảnh xă hội, v . v ., và có thể cả vào những
yếu tố huyền bí hơn như nghiệp của tiền
kiếp, và phúc duyên của mỗi người. Nhưng dù
theo pháp môn nào, điều kiện cần thiết vẫn
là đức Tin : tin vào Phật tính có sẵn trong ḿnh hoặc
tin vào ḷng từ bi vô lượng của đức Phật.
Kết luận tích cực và bất
ngờ : Người tu Tịnh Độ tin ở đức
Phật ngoài tâm sẽ cứu độ ḿnh, té ra là
được cứu độ bởi chính tâm ḿnh mà không
biết. Đúng như bài kệ nêu trên đă xác nhận :
Tham
thiền niệm Phật tính vốn đồng ,
mặc dầu h́nh như trái ngược nhau, bởi v́:
Rơ ràng xem kỹ thẩy đều không.
"Thẩy đều
không" nghĩa là muôn pháp trong thế gian, kể cả
đức Phật ngoài Tâm, đều chỉ là những biểu
thị của tâm (les manifestations du coeur) do tâm hiện tượng
hóa mà thành. Người tu Tịnh Độ lúc lâm chung thấy
đức Phật A Di Đà hiện ra trước mắt
để tiếp dẫn ḿnh về Cực Lạc thế
giới, thực ra là thấy tâm ḿnh được vô cùng
an lạc, tịch tịnh, sẵn sàng để vào cơi Tịnh
Độ không có những khổ, chỉ hưởng những
vui. Xin lấy một ví dụ thô sơ để thêm sáng tỏ
ư nghĩ trên. Có hai người làm tṛ xiếc đi trên dây
căng giữa hai cột, cao vài thước trên mặt
đất. Người thứ nhất (dụ cho tín đồ
Thiền tông), tin ở sự huấn luyện thành thục
của ḿnh, luôn luôn giữ được thăng bằng
trên sợi giây, dù cho nó động đậy cách mấy,
nên đi trên sợi dây rất vững vàng. Người thứ
hai (dụ cho tín đồ Tịnh Độ tông) tin ở tấm
lưới căng trên mặt đất, nếu lỡ xẩy
chân cũng chẳng hề hấn ǵ, nên mạnh bạo
đi lại trên sợi dây cũng rất vững vàng. Thực
ra, tấm lưới căng đâu có phải đă khiến
cho hắn giữ được thăng bằng trên sợi
dây ? Sự thành công này chỉ là kết quả của sự
tập luyện thành thục của hắn.
Và, trải qua nhận xét trên,
chúng ta lại càng thấy những lời đức Phật
dậy bảo, mặc dầu thiên h́nh vạn trạng, có
khi h́nh như mâu thuẫn, y nhiên như thị, bất di bất
dịch, bởi v́ đều dựa trên một thể chất
duy nhất là Chơn Tâm, là bản thể Chơn Như của
Vũ Trụ.
2- Phép tu theo Thiền tông.
Phần mở đầu : Tu
Thiền là ǵ ?
Tôn chỉ của Thiền tông
là : "Giáo ngoại biệt truyền, bất lập
văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật
". Một câu nói đó gồm đủ cả phương
pháp và mục đích của việc tu Thiền.
I. Mục đích : là kiến
tánh thành Phật. Ta có
thể coi kiến tánh là mục tiêu thứ nhất, mở
cửa cho ta vào cơi Niết Bàn và thành Phật, mục
đích tối hậu.
A/ Kiến tánh : là t́m hiểu
cái chơn tánh, cái bản thể của chính ta và của vạn
pháp trong vũ trụ, ẩn dưới những hiện
tượng mà nhà Phật gọi là các tướng.
1) Chơn tánh là cái ǵ ? Đó là vấn
đề số một của Phật giáo, và có thể nói
là của tất cả mọi tôn giáo và triết học, sẽ
xin bàn đến ở một đoạn sau. ở đây
chỉ xin đưa ra vài thí dụ thô sơ để gợi
ư đại khái thế nào là tánh, thế nào là tướng
:
- Nước sông, nước hồ,
nước biển, nước càfê, nước trà, là
tướng; chất nước H2O là tánh.
- Chất nước H2O là
tướng; các hạt dương tử, điện tử,
trung ḥa tử trong những nguyên tử khinh khí, dưỡng
khí, v.v. là tánh.
- Ánh sáng trắng, ánh sáng vàng,
ánh sáng xanh, ánh sáng đỏ là là tướng; những luồng
sóng từ điện là tánh.
- Mặt, mũi, lục phủ
ngũ tạng,các t́nh cảm và tư tưởng là tướng;
cái sức sống giữ cho thân và tâm được hoạt
động là tánh.
Khoa học càng tiến bộ
bao nhiêu, càng thấy những tướng muôn h́nh vạn trạng
dần dần thu lại một số ít tướng
đơn giản hơn, nhưng cái tánh hoặc bản thể
th́ vẫn ngoài tầm hiểu biết của loài người.
2)Tại sao vậy ? Một mặt
khoa học cho ta biết rằng con người chưa phải
là tŕnh độ tối hậu của sự tiến hóa vô
cùng tận của các loài sinh vật. Tuy loài người ở
tŕnh độ tiến hóa cao nhất, nhưng vẫn
chưa hoàn toàn. Thân ta chỉ có ngũ quan để nh́n,
nghe, ngửi, nếm và sờ mó, và khả năng ngũ
quan đó cũng rất hạn chế, ví dụ tai ta chỉ
nhận thức được vài âm giai (gammes), và mắt
ta cũng chỉ nhận thức được vài phần
rất nhỏ của các luồng sóng từ điện.
Cái trí óc của ta cũng vậy, cũng bị hạn
lượng, ví dụ chỉ có thể quan niệm không gian
có 3 kích thước và thời gian trôi theo một chiều,
không thể quan niệm không gian có 4, 5 kích thước và thời
gian đi ngược chiều hoặc đứng im một
chỗ trong đó chỉ có hiện tại, không có quá khứ
lẫn tương lai.
Một mặt khác, Phật giáo
cắt nghĩa rằng sở dĩ thân tâm ta khiếm khuyết
như vậy, là v́ nó đă bị nhào nặn (conditioned) bởi
nghiệp từ muôn ngàn kiếp trước. Mỗi loại
sinh vật có một loại cộng nghiệp khác nhau, do
đó mà có những giác quan và tâm thức khác nhau. Ví dụ
con dơi có bộ máy radar để bay ban đêm mà không bị
vấp, và có những loài vật sống sâu dưới
đáy biển hoặc trong ḷng đất không có thị
giác; đối với loài người th́ cái bàn là một
đồ đạc bầy trong nhà mà tượng Venus de
Milo là tác phẩm nghệ thuật tuyệt diệu, c̣n
đối với con mọt gỗ th́ cái bàn là một kho
lương thực, và đối với con kiến th́
tượng Venus chỉ là một tảng đá.
3) Cách cắt nghĩa như thế
của Phật giáo đúng hay sai, ta không cần bàn vội.
Nhưng có một sự kiện mà ta không thể phủ nhận
được, là với thân tâm hiện có, đại
đa số chúng ta không có đủ khả năng để
nhận thức bản thể của vạn pháp, bản
thể là một cái ǵ hoàn toàn bất khả tri.
Tuy bất khả tri đối
với đại đa số nhân loại, nhưng đă
có vài vị thánh hiền như bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật
và đức chúa Jesus Christ, và một số ít người
khác đă chứng nghiệm được bằng cách tu
luyện để biến cái thân phàm trần thành một
tâm thức siêu phàm. Theo phương pháp nào có thể
đưa tới mục đích kiến tánh thực sự
hay chỉ là một ảo vọng, sẽ bàn đến
sau. Giờ xin nói tiếp đến mục đích tối
hậu là thành Phật, mà sự kiến tánh chỉ là
phương tiện.
B/ Thành Phật.
Nói một cách khiêm tốn và giản
dị hơn, thành Phật là thoát ly khỏi những khổ
năo h́nh như là định mệnh con người.
1) Nhưng có đúng như thế
không ? Có đúng cuộc đời chỉ là một bể
khổ ? Tùy theo tâm tư và hoàn cảnh sinh sống, có
người lạc quan và có người bi quan. Nhưng dù
bi quan hay lạc quan, ai cũng phải công nhận rằng
khổ năo có thực, ít hay nhiều, không ai tránh được
hoàn toàn. Người xấu số th́ nào là buồn v́ nghèo
hèn, nào là thất vọng v́ địa vị, t́nh yêu mong muốn
mà không tới, nào là cay đắng tiếc một quá khứ
vàng son không c̣n nữa, nào là lo sợ cho một tương
lai mờ mịt đen tối. Người tốt số
th́ tuy ít chịu những khổ năo trên, nhưng nếu chịu
suy nghĩ kỹ th́ sẽ thấy rằng :
- Cái vui sướng chỉ có
trong chốc lát, không được trường tồn.
"Không có bữa tiệc nào là không có lúc tàn ", do đó
mà cái vui sướng không được hoàn toàn, nó bắt
buộc người ta trong lúc ngắn ngủi vui sướng
đă phải lo lắng sợ nó chóng hết. Ví dụ
người mới được bổ vào một chức
vụ béo bở, đă lo lắng ngay không biết lúc nào sẽ
mất địa vị đó.
- Cái vui sướng nhiều
khi phải trả giá bằng một cái khổ. Ví dụ muốn
có cái sướng thi đỗ th́ phải chịu khổ học
hành, muốn có cái sướng được làm ông lớn
th́ có khi phải khổ quỵ lụy luồn cúi.
- Cái vui sướng đôi khi
có hậu quả đem lại một cái khổ. Ví dụ
sau bữa tiệc thịnh soạn có thể bị bội
thực, có nhiều tiền sẽ bị người ḍm dỏ,
có địa vị sẽ bị người ghen ghét.
Ngoài ra, c̣n những khổ năo
dính liền với tính chất vô thường của con
người là già yếu, bệnh tật, những cảnh
sinh ly tử biệt với người thân thuộc, v . v
. th́ dù người có số tốt hay xấu đều
không thể tránh được. Lại c̣n nỗi lo sợ
về cái ǵ sẽ chờ ta ở bên kia thế giới, sau
khi ta mệnh chung.
2) Khổ năo đă thực sự
có, chứ không phải là kết luận vô căn cứ của
người bi quan, th́ vấn đề được
đặt ra là có thể nào tẩy trừ được
chúng không?
Phật giáo trả lời : Có,
và cắt nghĩa như sau : Những sự việc gây cho
ta khổ năo, như tiền tài, địa vị, ân oán, yêu
ghét, và ngay cả sinh mệnh của ta và của người
khác đều không có tự ngă, đều chỉ là hư ảo
mà vọng tâm nhận lầm là có thực. Kiến tánh tức
là thấy rơ cái giả tướng của chúng, tức là
không c̣n bị khổ năo v́ chúng nữa, tức là thành Phật,
bậc Giác giả. Cũng ví như người ngủ mê,
mơ thấy những ma quỷ hăi hùng, nhưng đến
khi tỉnh dậy, chẳng thấy ǵ nữa, bèn khoan khoái
cười ồ. Người kiến tánh thành Phật là
người đă tỉnh giấc mộng cuộc đời,
đă biết rằng cuộc đời chỉ là một
giấc mộng lớn mà những nghiệp tiền kiếp
đă khiến cho tâm thức ta nhận lầm là có thực,
là người đă hiểu thấu lẽ Sắc-Không,
"Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc,Thọ,Tưởng,
Hành, Thức, diệc phục như thị"
3) Như vậy thành Phật
không có nghĩa là thành một bậc dị nhân, trường
sinh bất tử, có những phép hô phong hoán vũ, di sơn
đảo hải. Người đă kiến tánh cũng chịu
lăo, bệnh, tử, cũng không thể tránh được
những biến cố năo ḷng như sinh ly tử biệt,
nghèo đói, chiến tranh, v . v . , nhưng không để cho
những biến cố đó ảnh hưởng đến
tâm thức tự tại vô úy của ḿnh. Cũng ví như
đi dưới trời mưa th́ làm sao ngăn được
mưa không rơi ? Nhưng người cầm dù th́ mặc
dầu có giọt mưa rơi xuống, vẫn không bị
ướt. Thành Phật tức là luyện được
cái dù chống lại những giọt mưa đau khổ.
Nói một cách khác, thành Phật không có nghĩa là đảo
lộn những luật thiên nhiên, mà chỉ có nghĩa là ứng
phó với những luật thiên nhiên với một cách nh́n
đời mới, thay đổi cái nhân sinh quan nhận lầm
các tướng là có thực bằng một nhân sinh quan thấu
triệt bản thể, khả dĩ giúp ta vượt khỏi
các hệ lụy hư ảo của thế gian.
Và như vậy th́ tu đạo
không bó buộc phải ĺa bỏ đời sống xă hội,
trốn những trách nhiệm của người công dân,
người con, người cha, v . v . Người tu thiền
vẫn nhập thế chứ không xuất thế. Chỉ
khác là trong khi nhập thế, có được một nhân
sinh quan khác thế thường.
4) Cũng như ở đoạn
trên, thuật giả đă nói rằng chúng ta không cần xét
vội xem cái Chơn tánh có thể thực sự kiến
được không hay chỉ là một ảo tưởng,
ở đây thuật giả xin thêm rằng chúng ta không cần
xét vội xem sự kiến tánh có thể giúp ta thành Phật
được không, hay chỉ là một ảo tưởng.
Chỉ có một cách để giải quyết những thắc
mắc đó, là chúng ta hăy thành khẩn tu theo phương
pháp của Thiền tông, sẽ thấy nó kiến hiệu
hay không.
II. Phương Pháp.
A. Những nhận
xét chung.
1) Xin nhắc lại :
phương pháp tu của Thiền tông được truyền
thụ từ thầy đến tṛ bằng những
phương tiện khế hợp với mỗi đệ
tử, ví dụ bằng một công án, một nụ cười,
một tiếng thét to, một roi đ̣n, và nhất là bằng
tấm gương đời sống của thầy, chứ
không phải bằng ngôn ngữ (giáo ngoại biệt truyền,
bất lập văn tự).
Tại sao vậy ? V́ ngôn ngữ
có tính cách ước lệ, nên chỉ có thể diễn tả
được những sự việc :
a) có khách quan tính (objectivity) :
- hoặc thuộc về những
đối tượng vật lư mà giác quan của mọi
người có thể nhận thức được, trực
tiếp như mầu sắc, h́nh dáng của một bông hồng,
một trái cam, hoặc gián tiếp qua những máy móc và
phương pháp khoa học tinh vi như nguyên tử và các luồng
sóng từ điện;
- hoặc thuộc về những
đối tượng phi vật lư như tư tưởng,
cảm t́nh, mà tri thức của mọi người có thể
nhận thức được một cách đơn-giản-hóa,
đă trở thành những khái niệm (concept). Thế nào là
một khái niệm đơn-giản-hóa ? Là chỉ cho biết
đối tượng thuộc loại nào thôi, chứ
không cho biết những đặc tính cá biệt của
nó. Cũng như danh từ cây cam áp dụng cho cả cây cam
nhà tôi, cây cam nhà anh, một danh từ phi vật lư như t́nh
yêu nam nữ có thể là yêu say đắm, yêu mê muội, yêu
sỗ sàng, yêu kính phục, v . v ., muôn vàn thứ yêu có đặc
tính cá biệt, nhưng đă được đơn-giản-hóa
để thành một khái niệm khách quan mà mọi người
có thể lĩnh hội được một cách đại
khái.
Trái lại, những ư nghĩ
nào mà chỉ có tính cách chủ quan (subjectivity) th́ ngôn ngữ
ước lệ không thể nào diễn tả trung thực
được. Ví dụ có thể nói rằng tất cả
chúng ta đều yêu thơ Nguyễn Du, nhưng cách tôi yêu
thơ đó khác anh, vấn đề này tế nhị và phức
tạp vô cùng, tùy theo hoàn cảnh sinh sống của mỗi
người, ngoài ra c̣n tùy thuộc ta đọc thơ
đó khi c̣n trẻ hay đă già, vào mùa xuân hay mùa thu, v . v . ,
những ư nghĩ chủ quan đó về thơ Nguyễn
Du không thể nào diễn tả hoàn toàn trung thực
được bằng ngôn ngữ.
b) Ngôn ngữ cũng chỉ có
thể diễn tả được những đối
tượng có tính cách tĩnh (statique), nghĩa là chỉ xử
dụng được những chữ đă được
xă hội gán cho một ư nghĩa nhất định, có giới
hạn hẳn hoi, như yêu khác ghét, thiện khác ác, những
danh từ yêu, thiện không thể đồng thời có ư
nghĩa ghét, ác.
Trái lại,những t́nh cảm
yêu, ghét, và những ư nghĩ về thiện, ác th́ sống
động (dynamique) trong tâm tư mỗi người, có thể
đồng thời hiện hữu, có thể chuyển biến
từ cái nọ sang cái kia, có thể xung đột nhau và cũng
có thể điều ḥa với nhau tùy từng lúc. Một
ví dụ : trong nết ghen của Hoạn Thư, có lẫn
lộn ḷng hận thù và niềm kính yêu, hai t́nh cảm hoàn
toàn trái ngược nhau.
Trở lại vấn đề
Kiến Tánh, th́ thấy rằng nó là một sự kiện
vừa chủ quan vừa sống động. Nó có chủ
quan tính mà không có khách quan tính v́ Chơn Tánh không phải là một
hiện tượng có thể trông thấy được,
sờ mó được, đo lường được,
suy luận được. Nó chỉ có thể nhận thức
trong thâm tâm, trong đáy ḷng, bởi một tâm thức siêu
phàm đă gột rửa những lối suy nghĩ và t́nh cảm
của thế tục. Nó lại sống động, không
tuân theo lư luận cứng nhắc, v́ nó là sự sống, nó
theo dịch lư chứ không theo kinh sách, nó luôn luôn trở thành
(devenir) chứ không là (être), bởi vậy nó chỉ có thể
cảm thấy trong thâm tâm chứ không thể đóng khung
trong những định nghĩa cứng nhắc. Do đó
mà Thiền tông chủ trương : "giáo ngoại biệt
truyền, bất lập văn tự."
2) Phép tu của Thiền tông
không dùng ngôn ngữ để giải thích Chơn Tánh,
nhưng các thiền sư cũng cố gắng làm nẩy
nở chơn tánh trong tâm thức của đệ tử bằng
những phương tiện chỉ thẳng vào tâm (trực
chỉ nhân tâm) như công án, hét, bổng, như đă nói ở
trên. Nếu chúng ta không được may mắn theo học
một thiền sư, th́ các phương tiện đó trở
thành vô nghĩa đối với chúng ta. Nhưng mục
đích của chúng, hiệu lực của chúng, th́ có thể
hiểu như sau : Chúng có mục đích gây cho thiền sinh
đang c̣n ch́m đắm trong lối suy luận và cảm
xúc đă được nhào nặn bởi đời sống
xă hội, một kích thích tâm lư mănh liệt, hoặc là cảm
xúc (émotional), hoặc là trí thức (intellectual), khiến cho
tâm thức của hắn bị đẩy ra ngoài khuôn khổ
ước lệ, khơi động bất ngờ nguồn
tiềm thức (unconcious) bấy lâu bị đè nén dưới
ư thức (concious), và giải phóng cái bản thể tự
nhiên, chưa bao giờ bị mất mà chỉ bị che lấp
thôi. Cũng như thỏi sắt bị han rỉ, nếu
ta dùng giấy nhám mà kỳ cọ nó, th́ cái ruột sắt
nguyên chất sẽ hiện h́nh.
Phép tu của Thiền tông là lấy
giấy nhám mà loại bỏ các tầng lớp han rỉ
để cho Chơn Tánh được hiển lộ. Nếu
ta không có thiền sư chỉ bảo, th́ cũng có thể
tự ḿnh làm công việc đó bằng cách suy nghĩ về
các giáo lư của đạo Phật như Vô ngă, Nhân quả,
Luân hồi,Ơ v.v. Suy nghĩ đến lúc nào lư trí của ta
bị mắc nghẽn, không thể tiến được
nữa. Lúc đó, nếu ta có phúc phận (nghĩa là căn
cơ tốt), th́ cánh cửa Kiến Tánh sẽ mở rộng,
Tuệ Nhăn của ta sẽ phát hiện, trong một thoáng
giây nh́n thấy cái Bản Thể Chơn Như không bợn
một chút niệm nào (Không), nhưng cũng đồng thời
tràn ngập Chơn lư tuyệt đối, tiết lộ lẽ
mầu nhiệm của Vũ Trụ và của
3) Để giúp đỡ thiền
sinh dễ dàng Định tâm, rồi từ định tâm tiến
tới việc mở Tuệ nhăn, phương pháp Thiền
tông cũng xử dụng một phần cách luyện tập
thân thể của Yoga, nhưng giản dị hơn. Đó là
những công phu điều thân và điều thức.
Vậy dưới đây sẽ
xin lần lượt tŕnh bầy hai bước đi của
phép tu theo Thiền tông, là Định tâm và mở Tuệ nhăn.
Phân biệt làm hai bước, v́ trong vài tháng đầu thiền
sinh chỉ nên chăm chú làm công phu điều thân và điều
tức thôi. Nhưng đến khi mục đích Định
tâm đă đạt được rồi, th́ phải song
song tiến hành hai công phu Định tâm và mở Tuệ nhăn. Cũng
ví như người tập đi xe đạp, lúc đầu
phải chú trọng đến việc giữ sao cho thân thể
được thăng bằng, khỏi ngă. Nhưng sau khi
đă biết đi xe đạp rồi, th́ có thể buông
tay lái, rút điếu thuốc ra khỏi bao, châm diêm để
hút, mà vẫn giữ được thăng bằng. Cũng
vậy, bước sang giai đoạn thứ hai, thiền
sinh vẫn làm các công phu điều thân và điều tức,
nhưng không cần chú ư đến chúng nữa, v́ chúng
đă trở thành những phản ứng tự nhiên và tự
động (réflexes involontaires), mà tiến đến công phu
thứ hai là mở Tuệ nhăn.
Nói tóm lại, muốn mở
được Tuệ nhăn có khả năng nh́n thấu
Chơn tánh, th́ trước hết nên t́m cách đặt thân
thể vào một thế thoải mái (relaxation), rồi sau
đó mới có thể dễ dàng vận dụng tâm trí theo
một chiều hướng nào đó. Và trước khi
tŕnh bầy phương pháp tu theo Thiền tông, tưởng
cũng nên nói qua về các phương pháp khác.
B. Các
phương pháp khác Thiền tông.
1) Xử dụng ma túy. Nói
đúng ra th́ đây không phải là một phương pháp
tu hành, mà chỉ là một lối đi t́m những nguồn
cảm hứng mới, những cảm giác phi thường,
một thiên đường giả tạo. Ai cũng biết
rằng người hút thuốc phiện đôi khiƠ cảm
thấy tâm hồn ḿnh như bay bổng vào cơi siêu h́nh, khoái
lạc không thể tả. Không những phương pháp
đó vô cùng nguy hiểm, nhưng vào cái thiên đường
gỉa tạo đó đâu phải là sự Giác ngộ chân
chính, nó chỉ là một cảm giác bệnh hoạn, nặng
về những khoái cảm thấp hèn.
2) Thứ hai là lên đồng,
múa may quay cuồng theo tiếng đàn hát du dương của
cung văn, cũng có thể đưa đệ tử của
đức Mẫu Thượng Ngàn tới một trạng
thái mông lung, tương tự trạng thái của người
xử dụng ma túy.
3) Một phương pháp hoàn bị
hơn là lối tập Yoga, gồm có các tư thế thân
thể khiến cho tâm tư tiến sâu vào phần Tiềm
thức, và phát triển một sinh lực phi thường,
có thể biểu lộ thành những phép lạ như thôi
miên, xuất hồn đi du ngoạn khắp thế giới
và cả những cơi Bồng lai tiên cảnh, nh́n vào một
hột giống để chỉ trong vài phút nó nẩy nở
ngay thành một cây có hoa lá, v.v. Nhưng đó là một
phương pháp bí mật, rất khó học, nếu không có
thầy hay chỉ dẫn th́ có thể thành mê cuồng, phát
điên, theo danh từ vơ học th́ gọi kết quả
tàn khốc đó là Tẩu hỏa nhập ma.
4) Sự dâng trọn tâm hồn
vào một tác phẩm nghệ thuật như cầm kỳ
thi họa. Người nghệ sĩ chân chánh có thể quên
hẳn thân ḿnh, quên hẳn cuộc đời thực tế
và g̣ bó, để thả tâm hồn vào cơi tận Mỹ.
Nhưng chỉ đến được cơi tận Mỹ,
c̣n tới cơi tận Chơn, tận Thiện, lại là một
việc khác. Huống hồ những người có nghệ
sĩ tính chỉ là một thiểu số, nên phương
pháp đó không thể phổ biến cho đa số chúng ta
được.
5) Sự dâng trọn tâm hồn
vào một đấng Cứu thế, vô lượng từ
bi, cho tới khi nhất tâm bất loạn tự khắc mọi
phiền năo và dục vọng sẽ tan biến đi, tâm
lâng lâng vô úy v́ đă cảm thấy được sự
che chở của đấng Cứu thế. Đó là
phương pháp tu của những tín đồ thành kính của
Thiên Chúa giáo và Phật giáoTịnh Độ tông. Phương
pháp này rất hữu hiệu để đạt tới
một trạng thái tâm lư vô cùng an lạc, nhưng chưa chắc
dẫn được tín đồ tới sự giác ngộ
bản thể của ḿnh và của vạn pháp. Nó hoàn toàn dựa
vào ḷng thành tín đối với một đấng Cứu
thế, ít xây dựng trên nhu cầu t́m hiểu mọi vấn
đề siêu h́nh. Do đó nó thích hợp với những
người chất phác, có ác nghiệp nhẹ, nên rất dễ
được cứu độ.
C.
Phương pháp của Thiền tông.
1) So sánh với phương
pháp cầu nguyện. Về phương diện kết quả,
nó đầy đủ hơn phương pháp cầu nguyện
một đấng cứu thế, v́ cũng đạt
được tâm an lạc, lại c̣n kiến được
Chơn tánh. Về phương diện khế hợp, nó
thích nghi với những người trí thức, nhưng
căn cơ lại kém, vọng tâm khó trừ, có nhiều thắc
mắc, muốn được hiểu rơ mới chịu
tin theo.
Thuật gỉa không giám nói là
trong hai phương pháp đó cái nào hơn, cái nào kém. Tùy
căn cơ của ḿnh, có người dễ dàng thành công với
phương pháp này, có người thành công với
phương pháp kia. Tốt hơn là nên vừa thành tín vào một
đấng Cứu thế, vừa tu tập theo
phương pháp Thiền tông. Như thế không phải là
ta thiếu lập trường, theo chính sách ba phải
đâu. Bởi v́ :
a) Cái bản thể Chơn
Như của vạn pháp, dù ta hiểu rằng nó tự hữu,
không do một đấng thánh thần Nhân-cách-hóa nào sinh ra,
nhưng vẫn phải nhận rằng nó có một sức
biến hóa mầu nhiệm, không thể giải thích
được. Vậy ta cầu nguyện là cầu nguyện
cái Lực mầu nhiệm đó chứ không hẳn là cầu
nguyện một đấng thánh thần Nhân-cách-hóa.
b) Cả hai phương pháp
trên đều khởi đầu từ một điểm
chung là Nhất tâm bất loạn. Rồi từ trạng
thái tâm lư đó, người tu theo Tịnh Độ tông sẽ
thấy hiện ra trong tâm tư ḿnh h́nh ảnh của đức
Phật tới soa đầu ḿnh, rưới nước
cam lộ, và đến khi lâm chung đón rước ḿnh về
Tây phương Cực lạc thế giới. C̣n người
tu theo Thiền tông th́ sẽ thấy thể Không của Chơn
tánh, các tướng đều là hư ảo, và ḿnh sẽ
được tự tại vô úy như người ra khỏi
bóng tối âm u mà nh́n thấy ánh dương quang rực rỡ.
2) Nội dung phương pháp
Thiền tông. Nó căn cứ vào hai sự kiện :
a) Một là sự ảnh
hưởng lẫn nhau giữa thân thể và tâm tư. Người
đang giận dữ tất nhiên mặt phải đỏ
gay, phùng mang trợn mắt; người vui tự nhiên mỉm
cười, mắt sáng, và người buồn tự nhiên
cau mày ủ dột, v . v . Và nhất là nhịp thở trong
những trạng thái tâm lư đó phải khác nhau. Ta muốn
định tâm, nhưng không thể nào trực tiếp sai bảo
được cái tâm. Ta phải dùng cách gián tiếp sai bảo
cái thân, rồi sau đó mới dễ dàng định tâm
được.
b) Hai là theo quy luật của
tâm mà chuyển nó từ tâm định đến tâm vô niệm.
V́ tuy nhờ các công phu điều thân và điều tức
mà tâm đă định được, nhưng bản chất
của nó là suy nghĩ, không thể bắt nó ngừng suy nghĩ
mà vẫn có ư thức. Thường thường khi tâm ngừng
suy nghĩ th́ cũng mất luôn ư thức, tức là rơi
vào giấc ngủ. Tâm vô niệm, trái lại, là tâm ngừng
suy nghĩ nhưng vẫn ư thức được rằng
ḿnh đang trống rỗng, vô niệm.
Vậy muốn đi tới trạng
thái tâm vô niệm có ư thức (Wakeful), th́ hăy để nó suy
nghĩ đến cùng cực cho tới một lúc nào đó
nó cảm thấy những cố gắng suy nghĩ của
nó đều vô hiệu, vấp phải một bức
tường không thể vượt qua. Cái bức tường
đó là giới hạn giữa cái lănh vực khả tri và
cái lănh vực bất khả tri, có thể chính là lănh vực
của ư thức (concious) chỉ có khả năng nhận
thức các tướng, và lănh vực của tiềm thức
(unconcious) có khả năng nhận thức được
Chơn Tánh. Có đích là tiềm thức có khả năng nhận
thức được Chơn Tánh không, như vài nhà phân-tâm
học bảo ? Cái đó chưa lấy ǵ làm chắc,
nhưng có một sự kỳ lạ là khi công phu suy nghĩ
theo lối lư luận thông thường bị bế tắc,
rất có thể tâm ta vượt qua bức tường chắn
nó, sẽ rời khỏi cái trí thức thông thường
để nhẩy vào cái trí thức siêu phàm. Binh pháp cũng
đă nói đến một sự kiện tương tự
: Có đặt ḿnh vào đất chết th́ mới t́m thấy
sinh lộ. Khi phải chiến đấu với một kẻ
địch mạnh hơn, nếu người chiến sĩ
c̣n thấy có đất rút lui th́ sẽ ngă ḷng, rút lui chạy
trốn. Trái lại, nếu bị dồn vào đường
cùng, một con sông rộng hay một dặng núi cao, th́ mới
chịu lăn xả vào cái chết, mới chiến đấu
không cần mong sống nữa, và may ra lại t́m được
sự sống trong cố gắng tuyệt vọng.
Các thiền sư thấu hiểu
sự kiện đó, nên khi xưa bắt các đệ tử
phải suy nghĩ về các công án không có giải đáp, ví
dụ : Thế nào là tiếng vỗ của một bàn tay ?
Nói một cách khác, thế nào là âm thanh vô thanh ? Dù suy nghĩ
đến đâu, thiền sinh cũng không thể giải
đáp được câu hỏi hắc búa đó, nó tượng
trưng cho vấn đề chính yếu của Phật
giáo là : Thế nào là cái sắc vô sắc ? thế nào mà Không
tức thị Sắc, thế nào mà trong Tướng có Tánh
và trong Tánh có Tướng ? Nhiều mà là Một, và Một
mà là Nhiều ? Và nếu trí óc thiền sinh đă đến
tŕnh độ chín mùi rồi, sẽ hốt nhiên đại
ngộ. Đại ngộ cái ǵ, thế nào, tại sao, chúng ta
là người ngoài cuộc, bây giờ không thể biết
được.
Như trên kia đă nói, chúng ta
không có sẵn thiền sư chỉ dẫn, chúng ta không thể
dùng các công án kỳ quặc đó để đại ngộ
theo đường tắt được. Chúng ta đành
phải suy nghĩ cùng cực về các giáo lư đạo Phật,
rồi tới một lúc nào đó cũng sẽ đi vào
ngơ cụt, cũng thấy rằng không thể hiểu
được thông suốt những giáo lư đó bằng lư
luận thông thường. Và đến lúc đó, may ra, nếu
tâm thức của ta đă chín mùi, ta cũng sẽ
được giác ngộ, nhưng theo một đường
lối dài hơn.
Dưới đây, căn cứ
vào những kinh sách đă được đọc và những
mẩu chuyện của những bạn đă ít hay nhiều
đạt tới trạng thái Định tâm và mở
được Tuệ nhăn, thuật giả xin lần
lượt tŕnh bầy 2 phần của phương pháp tu
theo Thiền tông, là :
(1)Các công phu điều thân và
điều tức
2) Công phu mở Tuệ nhăn.
Phần Hai :
Điều Thân Và Điều Tức.
I. Những
điều kiện thuận tiện.
A. Điều
kiện hoàn cảnh.
1) Địa điểm. Chỗ
nào cũng được, và những người đă
đắc đạo th́ dù ở giữa nơi náo nhiệt
vẫn giữ được đạo tâm. Nhưng đối
với người mới tập luyện th́ nên chọn
nơi kín đáo sẽ dễ thành công hơn. Thường
là pḥng ngủ riêng, nhưng nếu phải chung pḥng ngủ
với vợ con, th́ khi tọa thiền nên sang một pḥng
khác, ví dụ pḥng tiếp khách. Nếu nhà có gian thờ Phật
hoặc tổ tiên th́ tốt nhất, v́ nơi đó có sẵn
không khí trang nghiêm. Có thể thắp đôi nến sáng lờ
mờ và một nén nhang, nhưng phải tắt đèn
điện quá chói sáng.
2) Thời gian. Phải là giờ
tĩnh mịch, thật ít tiếng động. Thường
là sáng sớm, khi người nhà chưa thức dậy, hoặc
là đêm khuya, khi người nhà đă đi ngủ. Có
người bảo giờ Tư (từ 11 giờ đêm đến
1 giờ sáng) là tốt hơn hết, v́ lúc đó hai khí âm
dương của trời đất giao hợp. Nhưng
ngồi thiền giờ đó khiến cho giấc ngủ bị
cắt quăng, có hại cho sức khỏe đối với
người già cả. Dù sao th́ giờ ngồi thiền cũng
phải cách bữa ăn tối ít nhất là 2 giờ,
để cho bụng được nhẹ, không c̣n ỳ ạch
nữa. Thời gian ngồi thiền càng lâu càng tốt, v́
ngồi mỗi lần quá ngắn khó đem lại kết
quả mong muốn. Những ngày mới tập có thể chỉ
ngồi 10, 15 phút cho quen dần, nhưng về sau phải dần
dần tăng lên nửa giờ, một giờ, hoặc
lâu hơn thế nếu có thể. Giải pháp tốt nhất
là ngồi thiền trong buổi sáng sớm trước khi
mặt trời mọc, thắp một nén hương và chỉ
xả thiền sau khi nén hương tàn. C̣n buổi tối
nên đi ngủ sớm để dưỡng sức khỏe,
và chỉ cần niệm Phật hoặc tụng kinh trong
15, 30 phút là đủ để giữ tâm hồn an tịnh
trong giấc ngủ.
3) Quần áo. Tùy tiện, miễn
sao thân thể khỏi bị khó chịu v́ nóng quá hay lạnh
quá. Mùa đông phải mặc áo ấm, c̣n mùa hè th́ nên mặc
áo nhẹ, hoặc cởi trần cũng được.
Ngoài ra, giải rút quần và khuy áo cài cổ nên nới lỏng
để khỏi trở ngại việc hô hấp.
4) Tọa cụ. Trên đất
nên trải một tấm thảm để chân khỏi chạm
đất và nhiễm lạnh. Trên tấm thảm lại
đặt một bồ đoàn dầy chừng 4, 5 phân
để ngồi trên đó, không những để đôi
mông được êm, mà c̣n để cho thân thể dễ
dàng thẳng hơn là khi mông và đùi ngang nhau. Chiếc bồ
đoàn có thể là một mảnh đệm ghế, hoặc
một tấm chăn len gấp lại nhiều lần cho
đủ dầy.
B. Điều
kiện tâm lư.
Mục đích trước tiên
là dẹp bỏ tâm vọng động, để rồi
sau sẽ tiến tới trạng thái tâm vô niệm. Do
đó :
1) Phải tập quen cho ngũ
quan không đáp ứng với ngoại cảnh, nghĩa là
không nh́n, không nghe, không ngửi thấy ǵ nữa. Thực ra
th́ mắt vẫn nh́n, tai vẫn nghe thấy, mũi vẫn
ngửi thấy, mà chỉ không để cho cái nh́n thấy,
cái nghe thấy, cái ngửi thấy đó làm bận tâm ḿnh nữa.
Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp
một người mải mê suy nghĩ về một vấn
đề quan trọng th́ khi hắn đi ngoài phố mà nào
có trông thấy ai đâu, có khi lại c̣n nguy hiểm không
trông thấy xe qua lại, không nghe thấy tiếng c̣i xe nữa.
Việc tọa thiền cũng dẫn dắt ta đến
trạng thái đăng trí tương tự, nhưng là
đăng trí vô niệm chứ không phải vô tri, để tập
cho ta thoát ly dần dần những ảnh hưởng cám
dỗ hoặc phiền muộn của ngoại cảnh. Muốn
đạt mục đích đó th́, trong thời gian ngồi
thiền, phải tập dần dần không c̣n để ư
đến những tiếng động nhỏ trong đêm
khuya, như tiếng xe chạy ngoài đường, tiếng
đồng hồ tí tách, rồi sau cùng không nghe thấy ǵ nữa.
Nói một cách khác, là phải hướng sự nghe vào
trong, chỉ nghe thấy tiếng niệm Phật thầm
trong ḷng mà thôi. Lúc nào nghe rơ tiếng niệm Phật thầm
là thành công.
2) Thoát ly khỏi ảnh hưởng
của ngoại cảnh c̣n dễ, thoát ly khỏi những
giao động của nội tâm khó hơn nhiều. Người
mới tập thiền luôn luôn có tâm viên ư mă, nghĩa là tâm vọng
động như vượn nhẩy, ngựa chạy. Chợt
lo lắng về một tương lai mờ mịt, chợt
nuối tiếc một quá khứ vàng son, chợt vui, chợt
buồn, chợt hận những tên gian ác hại dân, chợt
mong muốn cảnh thái b́nh thịnh trị, v . v .
Làm thế nào để thoát ly
những mối bận tâm đó ? Sau đây, sẽ thấy
rằng chúng tự nhiên bị xua đuổi khi ta chú ư vào một
vấn đề giáo lư nào. ở giai đoạn đầu,
chỉ cần biết rằng : Vọng tâm là trạng thái
b́nh thường của kẻ chưa vào đạo, làm sao
có ngay được tâm định ? V́ vậy, trong khi ngồi
thiền, nếu vọng tâm chợt nổi, không có ǵ
đáng ngại cả, cứ để nó đến. Điều
duy nhất phải làm là ư thức được nó ngay, rồi
nhẹ nhàng gạt bỏ nó ra, trở về với công việc
đếm hơi thở hay quan sát bụng ph́nh ra hóp vào sẽ
nói ở một đoạn sau. Ví như một hiệu tạp
hóa đâu có cần ngăn cản ngay từ cửa vào những
tên bất lương trộm cắp ? Nhưng đă có những
cặp mắt quan sát kín đáo, nếu kẻ gian "cầm
nhầm" một món hàng rồi ra cửa không trả tiền,
th́ liền bị tóm cổ, mời về bóp. Lâu dần những
kẻ gian tham sẽ không c̣n dám bén mảng đến cửa
hiệu tạp hóa lợi hại đó nữa. Cũng vậy,
với công phu luyện tập bền bỉ, những ư nghĩ
loạn động sẽ thưa thớt dần, rồi
cuối cùng sẽ không xuất hiện nữa.
3) Nhưng công việc luyện
tập đó phải thực hiện trong tinh thần tự
nhiên, thoải mái, chứ không phải trong tinh thần
căng thẳng, mong ước. ước mong chóng thành
đạo th́ chẳng bao giờ thành đạo cả. Vậy
chớ có nôn nóng, phải b́nh tĩnh kiên nhẫn chờ ngày
phát hiện chơn tâm. Tùy căn cơ (tức là nghiệp
tiền kiếp, nó ảnh hưởng đến A Lại
Da Thức có nhiều hay ít chủng tử hướng về
đạo), có người chóng ngộ đạo, có
người lâu mới ngộ đạo. Và dù trong trường
hợp lâu hay chóng, cứ vững tâm rằng trong mỗi
người chúng ta đă có sẵn Phật tâm, cứ việc
kiên nhẫn tu hành, không thành đạo ngay trong kiếp này
th́ cũng là chuẩn bị cho việc thành đạo trong
một kiếp sau. Ngày nay ḿnh đă chớm nở ư muốn
học đạo, đă bắt đầu tu tập, th́
đó chính là dấu hiệu rằng ḿnh đă có cơ duyên
sẽ thành đạo, ḿnh phải kiên nhẫn vâng theo tiếng
gọi thiêng liêng đó.
II. Kỹ
thuật điều than và điều tức.
A. Điều
thân.
1) Ai cũng biết rằng giữa
thân thể và tinh thần có mối liên quan mật thiết.
Do đó, muốn cho tâm bất loạn th́ nên giữ cho thân
cũng bất động. (Nên nhớ rằng đó là một
điều kiện thuận tiện chứ không phải là
một điều kiện tuyệt đối cần thiết.
Người luyện vơ, bổ củi, tuy thân có chuyển
động, vẫn có thể điều tâm được
nếu mải mê chuyên chú vào công việc đó). Nhưng tại
sao không đứng, nằm, mà lại phải ngồi ? V́
đứng lâu th́ mỏi chân, và nằm lâu th́ dễ ngủ
quên. Do đó, tốt hơn hết là nên ngồi.
2) Phải ngồi như thế
nào ? Nguyên tắc là muốn cho thân thể được vững
vàng bất động trong suốt buổi thiền, th́
trung tâm trọng lực (centre de gravité) của toàn thân (ở
bụng, gần rốn) phải rơi xuống giữa
h́nh thang (trapèze) họp bởi hai mông ngồi trên bồ
đoàn và hai đầu gối đặt trên tấm thảm.
Như vậy, cách ngồi có thể
tùy tiện, miễn là điều kiện trên được
thỏa măn. Có thể ngồi trên ghế và bỏ thơng chân
xuống tấm thảm cũng được, nhưng
trong tư thế nàyƠ thân dễ ngả nghiêng v́ h́nh thang quá
hẹp.
Kiết già là lối ngồi
trên bồ đoàn, chân nọ bắt tréo lên đùi kia, khiến
cho cả hai đùi và hai đầu gối đều dựa
trên mặt thảm. Tư thế này vững chắc nhất
nhưng khó thực hiện đối với người
già, chân đă cứng.
Bán già th́ dễ hơn, chỉ
một chân bắt chéo lên đùi kia, c̣n chân kia th́ đặt
xuống thảm. Như vậy chỉ có một đùi và một
đầu gối chạm thảm, khiến cho thân thể
không hoàn toàn đối xứng (symétrique).
Cuối cùng, có thể ngồi
trên bồ đoàn, c̣n hai đùi và hai đầu gối
đều đặt trên thảm, nhưng không chân nào bắt
tréo lên đùi kia cả. Tư thế này cũng đối
xứng như lối kiết già, nhưng cái mạch điện
(circuit) chạy trong người không được
đóng kín như khi có chân nọ đặt lên trên đùi
kia.
Nói tóm lại, ngồi theo
tư thế nào cũng được, miễn là vững
chắc, không ngả nghiêng. Cũng nên kể thêm một yếu
tố, là sự tê chân mà một số người thường
bị khi ngồi lâu. Tùy người, có người thấy
ít tê chân với lối ngồi này mà tê chân nhiều với
lối ngồi kia. Vậy sau khi thí nghiệm các lối ngồi,
ta thấy lối nào ít tê chân th́ theo.
Có hai cách đối phó với
sự tê chân. Một là tạm ngừng buổi tọa thiền,
ruỗi chân ra, nắn bóp cho nó hết tê, rồi lại ngồi
thiền trở lại. Cách thứ hai sau này tốt hơn
: là để mặc cho chân tê, cố chịu, rồi dần
dần nó sẽ biến đi. Cứ chịu đựng
như thế được vài lần, rồi trong những
buổi ngồi thiền sau sẽ không c̣n thấy chân bị
tê nữa.
3) Ngoài ra, trong khi ngồi thiền
:
- mắt có thể mở hay nhắm
tùy ư. Nhưng nếu mở mắt th́ chỉ nên nh́n vào một
điểm nào trước mắt thôi, ví dụ đầu
nén hương, không được xê dịch nh́n chỗ
khác.
- đầu và thân phải giữ
cho thẳng, không được nghiêng ngả sang trái hay phải,
hoặc ngửng lên cúi xuống.
- đôi bàn tay th́ hoặc úp lên
trên hai đầu gối, hoặc lồng vào nhau và đặt
ngửa trước bụng, dựa trên hai chân.
- miệng nên mím lại, hai hàm
răng sít nhẹ vào nhau, và lưỡi th́ ấn nhẹ vào
phía trên, cạnh hàm răng trên. Nếu có nước miếng
chẩy ra đầy mồm, chớ có nhổ, nên nuốt
vào bụng v́ nước miếng rất quư, có các chất
phân hóa tố làm cho việc tiêu hóa được dễ
dàng.
B. Điều tức.
1) Muốn cho tâm được
lắng dịu, không những phải giữ thân bất
động, mà c̣n phải điều khiển hơi thở
theo mấy quy tắc sau đây :
a) Thở phải thật
điều ḥa, giữ vững một nhịp điệu,
và nhẹ nhàng, không gây một tiếng kḥ khè nào.
b) Phải chậm lại chút
ít để cho hai lá phổi, tuy vẫn nhận được
mỗi lần hít vô nhiều không khí mát lành, nhưng với
một tốc độ giảm đi. Có như vậy th́
tâm mới dễ dàng lắng đọng, cũng ví như một
chiếc động cơ, nếu nhận bớt săng
vào th́ tự khác sẽ quay chậm lại. Nhịp thở
trung b́nh của một người khi không ngồi thiền
là 15 chu kỳ hít vô và thở ra trong một phút. Trong khi ngồi
thiền, ta hăm bớt nhịp độ đó xuống 10,
hoặc đến 6 là đủ (nghĩa là mỗi chu kỳ
hô hấp dài từ 6 tới 10 sao, thay v́ 4 sao). c)
Phải xả bỏ những
lực căng thẳng (forces de tension) c̣n lại trong thân.
Những lực căng thẳng đó là ǵ ? Có người
giải thích rằng đó là sự xung đột giữa
ư thức và tiềm thức. Có người giải thích rằng
đó là những luồng điện chạy trong người.
Ta lại c̣n có thể nghĩ rằng đó là những ác
nghiệp vẫn c̣n ngự trị tâm hồn ta. Cách giải
thích nào đúng, vấn đề đó không cần thảo
luận. Cái quan trọng là sự kiện trong khi tọa thiền,
mặc dầu ta đă điều thân và điều tức
đúng phép, tâm tư ta vẫn chưa hoàn toàn thoải mái, vẫn
c̣n những luồng sóng ngầm giao động nó. Muốn
khắc phục những luồng sóng ngầm đó,
phương pháp của ông Tám (người truyền bá phép
Tu Xuất Hồn) tỏ ra rất hiệu nghiệm : Là cả
trong khi hít vô và thở ra, luôn luôn đưa hơi thở
lên trên (upwards), chứ không bao giờ đưa xuống.
Nghĩa là : khi hít vô th́ ph́nh bụng ra trước, để
không khí đầy bụng trước, rồi mới từ
từ đưa nó lên phổi và khắp cả thân thể;
khi thở ra, th́ hóp bụng lại, để tống không
khí từ phổi và khắp thân thể lên mũi, và tưởng
tượng rằng hơi thở xuyên qua nê hoàn cung (xoáy
đầu).
2) Điều tức c̣n có mục
đích thứ hai là, trong khi ngăn chận các tạp niệm
nổi dậy, th́ vẫn giữ tâm thức hoàn toàn tỉnh
thức (wakeful), chứ không biến mất đi như
trong giấc ngủ. Muốn đạt mục đích này,
h́nh như tương phản với mục đích thứ
nhất, các thiền gia đă nhận xét rằng : Tại
đan điền (chỗ bụng dưới rốn chừng
2, 3 phân) có một trung tâm thầnƠ kinh, nó là gốc rễ của
tinh lực (vital spirit). Và muốn cho tinh lực được
dồi dào khả dĩ giữ cho tâm thức được
hoàn toàn tỉnh táo, th́ ta phải căng thẳng những bắp
thịt của bụng, nhất là hoành cách mô (diaphragme). Do
đó, trong khi tọa thiền, ta chỉ nên thở bằng
bụng, khi hít vô th́ căng ph́nh bụng để cho hoành
cách mô hạ xuống, và khi thở ra th́ bóp bụng để
cho hoành cách mô trồi lên.
Phần Ba : Mở Tuệ Nhăn.
Vài điểm sơ khởi
nên chú ư :
1) Sự mở Tuệ nhăn (c̣n
gọi là trí Bát Nhă) khác xa với sự hiểu biết sau
khi lư luận theo các phương pháp phân tách (analyse), tổng
hợp (synthèse), diễn dịch (déduction) và qui nạp
(induction). Nó gần gần giống sự đột khởi
của trực giác (intuition). Sự việc này ai cũng
đă từng chứng nghiệm rồi, nhất là trong giới
nghệ sĩ. Ví dụ một họa sĩ muốn vẽ
một bức tranh chợ Tết để diễn tả
nỗi vui trong ḷng ḿnh. Nhưng ông suy nghĩ măi mà vẫn
chưa thấy nên bố trí thế nào cho bức họa
được thập phần mỹ măn, tiếp tục
suy nghĩ măi, rồi hốt nhiên một lúc nào đó hiện
ra trong đầu óc h́nh ảnh rất rơ rệt cái mà ḿnh muốn
vẽ, đầy đủ nét h́nh và mầu sắc sống
động. Và họa sĩ chỉ c̣n việc dùng bút vẽ
lại cái mà ḿnh đă trông thấy trong đầu óc. Những
bức danh họa và nét bút sương kính của cổ
Trung Hoa là một thí dụ điển h́nh của sự kiện
người nghệ sĩ đă xuất thần mới
sáng tác được những tác phẩm siêu phàm đó.
Lịch sử khoa học Âu Tây
ghi rằng ông Newton nghĩ măi mà không t́m ra nguyên cớ tại sao
mặt trăng luân chuyển chung quanh
trái đất. Rồi bỗng một hôm ông
nh́n thấy một quả táo ở trên cây rụng xuống
đất. Ông bèn hốt nhiên phát minh ra
định luật "Vạn vật tương hấp
dẫn". Bên Á đông cũng có một
trường hợp xuất phàm trong lịch sử tư
tưởng. Vương Dương Minh sống
dưới thời nhà Minh, mặc dầu đă thi đỗ
tiến sĩ, làm quan to, vẫn thắc mắc về sự
chú giải Nho giáo của các Hán nho, Tống nho. Rồi ông bị gian thần hăm hại bị
đầy xuống miền Nam di. Ông bèn lợi dụng
thời gian bị đi đầy để nghiền ngẫm
về Nho học. Rồi bỗng một
đêm ông phát minh ra thuyết Trí lương tri, nghĩa là
tâm ta có sẵn ch́a khóa mở các bí mật của các sự
vật, cách vật chỉ là trí tri mà thôi, chỉ là giữ
tâm yên lặng để nó có thể thấu hiểu mọi
lẽ. Ông bèn ngồi dậy, ôn lại từng câu
trong Tứ thư ngũ kinh, th́ thấy
ư nghĩa sáng ḷa, không c̣n chỗ nào nghi ngờ vấp váp nữa.
Trạng thái trí lương tri của nho gia Vương
Dương Minh đă đi xa hơn trạng thái trực
giác của khoa học gia Newton, và đă tiến gần
đến quả Bát Nhă của nhà Phật. Phật giáo dậy
rằng :
- Các pháp trong Vũ trụ không
ngoài Sự (tức là các sự vật và các hiện tượng
cá biệt) và Lư là nguyên lư hoặc thực thể tối hậu
ẩn dưới các cá vật và hiện tượng.
- Điều đó trí thức suy
luận của chúng ta hiểu được, nhưng trí
siêu phàm hay Bát Nhă c̣n hiểu thêm rằng: lư sự vô ngại,
nghĩa là không có sự khác biệt giữa Không và Sắc,
giữa bản thể và hiện tượng. Sắc là sự,
giữa nó và lư của nó là Không, không có ngăn ngại ǵ cả;
sự sự vô ngại , nghĩa là tất cả các sự
vật trong vũ trụ đều chung một thể,
chúng sinh là Phật và Phật cũng là chúng sinh, tôi là anh và
anh cũng là tôi.
Chỉ khi nào vọng tâm
được rửa sạch và chơn tâm hiển lộ
th́ mới đạt được trí Bát Nhă, hiểu rơ lư
sự vô ngại và sự sự vô ngại, và lúc đó sẽ
thoát khỏi ṿng cương tỏa của thời gian và
không gian, của định mệnh con người, tự
thấy ḿnh vui một cách hồn nhiên, tự tại, tâm vô
quải ngại, vô hữu khủng bố, viễn ly
điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết
Bàn.
2) Sự mở Tuệ nhăn là một
biến cố thay đổi hoàn toàn tâm tư của một
người, không những trên b́nh diện trí thức, mà là
sự thấm nhuần chân lư cả trên b́nh diện t́nh cảm
và ư trí, một cách tự nhiên nhi nhiên. Nghĩa là đứng
trước bất kỳ một hoàn cảnh nào, người
đă giác ngộ tức khắc phản ứng theo đúng
tâm giác ngộ của ḿnh, không cần suy nghĩ, không cần
lư luận. Nếu c̣n phải suy nghĩ, lư luận, th́ tức
là chưa giác ngộ. Ví dụ một thiền sư hỏi
: "Con chó có Phật tính không ?" Nếu thiền sinh phải
suy nghĩ rồi mới trả lời, th́ dù trả lời
đúng, công án đó cũng kể như là một cuộc
thử thách thất bại đối với hắn. Lại
một tỉ dụ gần với chúng ta hơn : Khi ḿnh
nghĩ đến con cháu, họ hàng ở xa xôi mà
thương nhớ chúng, th́ công phu tu tập của ḿnh về
hai chữ Sắc Không chưa được thành tựu.
3) Xin nhắc lại rằng,
trừ vài trường hợp hi hữu như trường
hợp của lục tổ Huệ Năng, sự mở
Tuệ nhăn thường chỉ đạt được
sau một thời gian khổ luyện lâu dài, trong đó trí
óc vận dụng mọi khả năng suy nghĩ để
cố gắng xuyên qua các hiện tượng mà nh́n thấy
bản thể. Đó là tác dụng và lư do của các công án cổ
thời. Không có thiền sư chỉ dậy, chúng ta phải
tự lựa chọn những đề tài suy nghĩ có
tác dụng tương tự các công án, nhưng không đặt
dưới h́nh thức kỳ bí cổ quái nữa. Và chúng
ta cố gắng t́m hiểu cho tới khi không c̣n chút hồ
nghi nào trong ḷng. Nếu quá dễ dăi chấp nhận những
lời diễn giải trong các kinh sách hoặc các bài thuyết
pháp, không tự ḿnh cố gắng biến các giáo lư thành máu
thịt của ḿnh, th́ chẳng đi đến đâu cả.
Có thái độ thụ động như thế, ta có thể
là một tín đồ ngoan ngoăn, một Phật tử trung
kiên, nhưng chắc chắn không thể kiến tánh
được, không thể thành Phật được.
Sau khi đă nhận định
sự cần thiết phải tự ḿnh t́m hiểu, vấn
đề được đặt ra là nên chọn những
đề tài nào cần t́m hiểu. Mục tiêu kiến tánh,
mở Tuệ nhăn, tuy có một, nhưng có thể có nhiều
con đường dẫn tới và mỗi con đường
có những mốc chặng đường khác nhau. Ví dụ đi đường bộ từ Saigon lên Đà Lạt qua
ngả Blao th́ có những chặng Định Quán, Blao, Djiring,
Liên Khàng. C̣n qua
ngả Nha Trang th́ có những chặng Phan Thiết, Phan Rang,
Nha Trang,Ơ Belle-Vue. Do đó mà những mốc
tŕnh bầy dưới đây chỉ là những mốc do
thuật gỉa đă lựa chọn cho ḿnh, c̣n độc
gỉa có thể chọn những mốc khác.
I. T́m hiểu
Ta.
Ai cũng biết rằng Ta gồm
có một phần vật chất thường gọi là
Thân, nhà Phật gọi là Sắc, và một phần tinh thần
gọi là Tâm, nhà Phật gọi là Thọ, Tưởng,
Hành, Thức.
A. Thân thay
đổi rất nhiều từ lúc sơ sinh đến
lúc nhập quan. Giữa
một đứa bé bụ bẫm, một thanh niên tráng kiện,
và một cụ già lưng c̣ng đầu bạc, đâu có
cái ǵ là h́nh hài cố định ? Khoa học lại c̣n cho
ta biết rằng mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút,
trong cơ thể ta có vô vàn tế bào bị già cỗi, bị
loại ra ngoài, và được thay thế bằng những
tế bào mới. Không những vô thường, thân cũng
vô ngă nữa. Như tu sĩ Nagasena trả lời cho vua
Milinda, người Nagasena chỉ là một mớ da, thịt,
xương, v.v. chẳng một cái nào đó là Nagasena cả.
Tiến lên một bước nữa, Phật giáo bảo rằng
da, thịt, xương cũng không có nốt, chỉ là do tứ
đại (địa, thủy, hỏa, phong) nghĩa là bốn
yếu tố đặc,lỏng, nóng, động, tạm
hợp mà thành rồi lại tan ră, chẳng cái nào là của
ta cả.
B. Tâm cũng
vô thường như Thân, v́ ta khi vui khi buồn, khi nghĩ
thế này, khi nghĩ thế khác. Nhà Phật gọi các t́nh cảm và tư
tưởng đó là Tâm sở. Như các tế bào của
thân thể, những tâm sở cũng sinh sinh diệt diệt
luôn luôn. Tâm lại c̣n vô ngă nữa, cứ xét việc này
đủ biết : Chúng ta là những kẻ trung b́nh, không hẳn
gian ác hoặc anh hùng. Vậy mà đôi khi cũng có những
ư kiến tham tàn như Tào Tháo, Tần Cối, và khi đọc
sử cũng thấy tâm hồn sôi sục với những
ư định vá trời lấp biển như những sự
nghiệp anh hùng của Hưng Đạo Vương, Lê Lợi.
Chúng ta cũng không hẳn ti tiện hoặc tao nhă, vậy
mà khi xem các tiểu thuyết khiêu dâm, ta cũng có những dục
vọng dâm tà như hồ ly tinh trong truyện Liêu Trai, và
khi ngâm nga các bài cổ văn, ta cũng có những tư
tưởng tao nhă thoát tục như Lư Bạch, Bà huyện
Thanh Quan. Làm ǵ có cái tâm nhất trí, riêng của một ḿnh ta
?
C. Ngoài Thân
Tâm vô thường vô ngă, c̣n có cái ǵ trong Ta không ?
Trên kia chúng ta đă một mặt
nhận xét rằng cả Thân và Tâm đều vô thường
và vô ngă. Vậy cái gọi là Ta thật ra chẳng có ǵ sao,
chỉ là con số không hay sao ? Hoặc trái lại, theo sự
tin tưởng của một số đông, ngoài thân tâm ta
c̣n có một cái ǵ linh thiêng, thường được gọi
là Hồn. Và từ muôn thủa nhân loại đă không ngớt
băn khoăn về vấn đề cổ điển :
Có linh hồn bất diệt không ?
Tiện đây, trước khi
bàn về vấn đề đă nêu, xin mở một dấu
ngoặc. Theo sự giảng giải của đạo Phật,
th́ không có một thực tại Linh hồn bất di bất
dịch nào cả qua các kiếp luân hồi. Ví dụ tên gian
thần Tào Tháo đời Hán, không phải đời đời
kiếp kiếp vẫn giữ cái linh hồn gian ác đó
đâu, không có linh hồn bất diệt Tào Tháo nào cả,
v́ tâm cũng vô ngă như thân, cái A Lại Da Thức của
hắn, tùy theo các nghiệp tạo ra trong các kiếp kế
tiếp mà thay đổi, có thể kiếp này là một
người gian ác, kiếp sau là ngạ quỷ chịu h́nh
phạt nặng nề, kiếp sau nữa là một người
nữ nghèo khổ nhưng lương thiện rồi kiếp
sau nữa là bậc anh hùng vị quốc vong thân Nhạc
Phi đời Tống cũng chưa biết chừng. Vậy
ta không nên đặt vấn đề dưới h́nh thức
: "Có linh hồn bất diệt không ?" mà chỉ
đặt vấn đề dưới một h́nh thức
không tiên quyết, cho phép ta sẽ t́m một danh từ thích
hợp hơn sau này, khi ta đă hiểu rơ vấn đề
hơn. Là : "Ngoài thân tâm vô thường và vô ngă, có một
cái ǵ siêu h́nh trong Ta không ?"
Hiển nhiên đây là một vấn
đề siêu h́nh, không thể giải quyết được
bằng lư luận, mà chỉ có thể t́m hiểu bằng
chứng nghiệm bản thân mà thôi. Thuật gỉa c̣n nhớ
rằng khi theo học lớp Triết của chương
tŕnh trung học Pháp, đă có học vấn đề
đó rồi, và thấy những lư lẽ mà các triết gia
Âu Tây đưa ra vừa tế nhị quá, lại vừa
máy móc quá, không thỏa măn ḿnh một chút nào. Vậy tốt
hơn hết là chứng nghiệm bản thân, nhưng chứng
nghiệm cách nào ?
1) Chúng ta hăy tọa thiền, tĩnh
tâm và nhận xét trước hết về cái Thân của
ta. Có người tin tưởng rằng cái thân vật chất
là thực tại duy nhất, rằng Ta là thân thể, rằng
ư thức về ta xuất hiện trong bộ óc khi ta chào
đời và biến mất khi ta mệnh vong, khi thân thể
tan ră. Họ nói : tư tưởng, t́nh cảm chỉ là
phó sản của bộ óc, cũng như mật là phó sản
của gan.
Nhưng có nhiều sự kiện
rơ ràng trái ngược với luận điệu đó, tỏ
rằng cái ư thức về ta có thể tách rời khỏi
thân thể :
a) Trong giấc ngủ say không
có mơ mộng, ta không c̣n trông thấy, nghe thấy ǵ nữa,
có thể nói là cái ư thức về ta đă biến mất,
đi đâu th́ không biết, nhưng chắc chắn là
không c̣n ở trong thân nữa. Hơn thế nữa, ta lại
lấy trường hợp một người chiến
binh phải chiến đấu gian khổ trong mấy ngày
đêm liền, rồi bị thương, ngă gục xuống
và nằm mê man bất tỉnh. Rồi trong giấc ngủ
như chết đó, hắn được khiêng về nhà
thương, giải phẩu, gắp đạn ra khỏi
vai, cưa chân, mà vẫn bất động. Vài ngày sau hắn
mới tỉnh dậy, trong trường hợp này, rơ ràng
cả bộ máy thần kinh cũng bị tê liệt, chứ
không riêng ǵ ngũ quan, thế nhưng khi hắn tỉnh dậy
th́ lại có ngay ư thức về cái Ta của hắn.Vậy
trong khi hắn bị thương và ngủ say như chết,
ư thức về tên tuổi hắn, về cuộc đời
của hắn, đă rời khỏi thân thể hắn,
nhưng không hề mất đi, vẫn c̣n tàng ẩn ở
một nơi nào đó, ở đâu th́ không biết,
nhưng nhất định là không ở trong bộ óc
đă bị tê liệt.
b) Ta lại lấy trường
hợp những người đă chết đi và sống
lại được kể trong cuốn Life After Life của
bác sĩ Raynaud A. Hoody, có những người đă chết
thực sự, mũi ngừng thở, tim ngừng đập,
mạch ngừng chạy. Trong khi đó th́ vía phách của họ
phiêu lưu đây đó, có người gặp thần tiên,
có người đi vào một con đường hầm tối
om rồi tới một nơi có ánh sáng chan ḥa, đầy
hoa thơm cỏ lạ. Rồi sau vài giờ vía phách đó
trở lại, trông thấy tử thi nằm trên giường,
nhập vào đó, và sống lại. Rồi họ kể
cho bác sĩ nghe những điều họ đă thấy ở
thế giới bên kia, tỏ ư nuối tiếc cái cảnh
thần tiên đă gặp trong thời gian tạm chết.
Những trường hợp
chết đi sống lại như thế không phải là
hiếm, và đă được bác sĩ Hoody nghiên cứu
tỉ mỉ, với đầy đủ cẩn thận
khoa học tinh vi để đề pḥng mọi gian dối,
bịa đặt. Và dù ta có cho rằng những cảnh thấy
ở thế giới bên kia không có thật, chỉ là những
h́nh ảnh tưởng tượng, nhưng vẫn c̣n một
sự kiện không thể phủ nhận được.
Là : những người đó quả thật đă chết,
v́ tất cả các bộ máy hô hấp, tuần hoàn, thần
kinh của họ đều đă tê liệt. Và kết luận
hiển nhiên là trong Ta có một cái ǵ huyền diệu gọi
là vía hoặc phách, hoàn toàn tách biệt với thân thể, có
thể xuyên qua tường và mái nhà, bay bổng lên cao
như gió thoảng, và tồn tại sau khi thân thể chết,
ít nhất là trong một vài giờ.
2) Chúng ta vừa vượt qua
một chặng đường, và đi tới nhận
định chắc chắn rằng thân ta không phải gồm
tất cả Ta, c̣n một cái ǵ khác nữa, có thể tách
biệt khỏi nó. Bây giờ chúng ta bước vào chặng
đường thứ hai, tiếp tục tọa thiền,
tĩnh tâm và nhận xét về các t́nh cảm vui buồn, yêu
ghét, và các tư tưởng hằng ngày ta vẫn có về
chính trị, kinh tế, gia đ́nh, xă hội, v . v . Các cái
đó đă phải là cái Thực Ta chưa ? Nhiều
người nghĩ như vậy, V́ Ta là cái ǵ nếu không
phải là ư thức về Ta, về tên tuổi ta, địa
vị ta trong gia đ́nh, xă hội, về cuộc đời
của ta, gọi chung là tâm tư ? Nhận xét đó rất
đúng. Ta là con người có ư thức, có tâm tư, hơn
là con người vật chất, vô tri như cây cỏ.
Nhưng chỉ mới đúng một nửa, v́ có nhiều
lư lẽ chứng tỏ rằng cái tâm tư đó có thể
bị tê liệt trong một thời gian rồi lại tái
xuất hiện, khiến cho ta phải kết luận rằng
nó chưa phải là chính Ta, cái thực thể liên tục
không ngừng :
a) Trước hết, ta có thể
tái dụng những trường hợp đă nêu trên về
giấc ngủ say như chết của người
thương binh và về hiện tượng xuất hồn
của người chết đi sống lại. Trong những
trường hợp đó, không những thân thể tê liệt,
mà cả tư tưởng, t́nh cảm thường ngày cũng
biến mất, nhưng vẫn c̣n một cái ǵ gọi là
vía, phách, hoặc hồn, có khi lạc vào một thế giới
khác, có khi chẳng đi đâu cả, nhưng lúc tỉnh dậy
th́ lại nhập vào Ta, tâm tư có thể tạm thời
mất đi, nhưng cái Ta không hề mất đi.
b) Ta lại c̣n có thể nhận
xét sâu sắc hơn về những tâm sở của ta, vô
thường và vô ngă. Khi ta cảm thấy vui, th́ ai vui ?
chính là ta. Khi ta buồn, th́ ai buồn ? cũng chính là ta. Và
khi ta nghĩ rằng nam nữ b́nh quyền là đúng, th́ ai
nghĩ vậy ? chính là ta. Và khi ta nghĩ rằng nam nữ
b́nh quyền là sai, th́ ai nghĩ thế ? vẫn cũng là
ta.
Vậy phải kết luận
rằng những tâm sở nhiều vô kể kia, sinh sinh diệt
diệt chỉ là những biểu lộ muôn h́nh và có thể
trái ngược nhau, những tướng, dụng của
cái Thực Ta duy nhất. một ví dụ đă cũ
nhưng rất đúng, ta có thể nói : Cái thân của ta là
một lữ quán, lúc đầu c̣n nhỏ bé, rồi khuếch
trương lên, xây thêm nhiều pḥng ốc, và cuối cùng
xiêu vẹo, bị phá đi để xây dựng một cái
lữ quán mới. Nó không phải là ông chủ cái lữ quán
đó. Cái tâm sở của ta là những lữ khách tới
trọ, một vài giờ, một vài ngày, rồi lại ra
đi; chúng cũng không phải là chủ nhân ông cái lữ
quán đó. Chủ nhân cái lữ quán đó là cái Thực Ta,
cái Chơn Ngă, bất sinh bất diệt, trước khi
làm chủ cái lữ quán đó th́ đă làm chủ một lữ
quán xa xưa, và sau khi cái lữ quán kia đổ nát th́ sẽ
lại làm chủ một lữ quán mới, măi măi vô cùng tận.
Xin nhắc lại rằng chủ nhân đó vẫn chỉ
có một, nhưng qua nhiều kiếp luân hồi th́ có thể
thay đổi cả h́nh hài lẫn tâm tư. Cũng ví
như cái là cái quán bằng tre nứa hồi 50 năm về
trước là của ông Nguyễn văn Cột, chủ
cái quán bằng gạch ngày nay là ông Nguyễn văn Kèo, con
ông Nguyễn văn Cột, và có thể chủ cái lữ
quán tương lai, có nhiều tầng lầu tối tân sau
này, sẽ là cô Nguyễn thị Lan, con ông Nguyễn văn
Kèo ? Ông Cột, ông Kèo và cô Lan rất khác nhau về tâm tính,
dù cho các vọng tâm qua các kiếp kế tiếp, nhưng
đều chung một gịng máu họ Nguyễn dù cho bản
chất Chơn Ngă liên tiếp tồn tại qua các kiếp
luân hồi.
Tới đây, chúng ta đă có một
chút hiểu biết chơn chánh về thực chất củaTa,
nó không phải là Thân, nó cũng chẳng phải là cái giả
tâm tức là các tâm sở sinh sinh diệt diệt, mà là một
cái ǵ kỳ diệu, không hề mất đi khi ta ngủ
say, ốm mê man hoặc chết tạm (và có thể tồn
tại măi măi qua các kiếp khác; điều này ta sẽ bàn
đến sau). Cái đó gọi là Chơn Ngă, hoặc
Chơn Tánh, hoặc Phật Tánh, hoặc Tia Sáng thánh thần
(étincelle divine) cũng được. Ta chỉ mới
đi tới kết luận chắc chắn rằng ngoài
Thân và Tâm, là những tướng, c̣n một bản thể,
thế thôi. C̣n cái Bản Thể đó ra sao, sinh ra Thân và Tâm
như thế nào, có bất sinh bất diệt không, có chu biến
trong khắp vũ trụ không, th́ ta chưa vội bàn đến.
Vậy ta hăy tạm để
ra bên vấn đề bản thể của Ta để
quay sang suy nghĩ về một vấn đề khác liên
quan đến nó, tức là vấn đề bản thể
của Vũ Trụ (trong đó có ta), may ra có thể soi sáng
được vấn đề bản thể của ta.
II. T́m hiểu
Vũ Trụ. A. Nguyên
liệu tối hậu của Vũ Trụ theo khoa học.
Trong Vũ Trụ, ngoài Ta ra c̣n có người khác, các sinh vật
khác (gồm có thực vật và động vật), và các
vô sinh vật (khoáng chất). Khoa học cho ta biết rằng
:
1) Về phương diện
nguyên tố thành phần, tất cả đều họp
thành bởi các nguyên tử, dù là sinh vật hoặc vô sinh vật,
và tất cả các nguyên tử đều tạo bằng
vài hạt vật chất có điện âm (électrons), hoặc
điện dương (protons), hoặc trung ḥa (neutrons),
v.v.
2) Về phương diện
cơ cấu (structure), những sinh vật họp thành bởi
những tế bào gồm nhiều nguyên tử đă
được kết hợp theo một mẫu riêng, c̣n
các vô sinh vật th́ không.
3) Về phương diện
tâm thức, th́ loài người có tâm thức tiến bộ
hơn cả, c̣n những loại động vật khác
th́ chỉ có những bản năng, và các thực vật
c̣n kém nữa, chỉ có những khuynh hướng để
sinh tồn và bảo toàn gịng giống (ví dụ : hướng
dương, nở hoa, sinh trái). Đến các vô sinh vật th́
thiếu cả khuynh hướng sinh tồn, hoàn toàn thụ
động chịu các áp lực của hoàn cảnh.
4) Tiến hóa luận
(evolutionnisme) th́ cho ta biết rằng các loại sinh vật
tiến hóa từ loại đơn giản nhất là
protozaires chỉ có một tế bào, tới loài người,
có triệu triệu tế bào, khác nhau để dễ phân
công, thành những tế bào xương, tế bào bắp thịt,
tế bào thần kinh, v . v .
Vậy mặc dầu có những
khác biệt giữa các vật trong Vũ Trụ, ta có thể
kết luận rằng tất cả sinh vật và vô sinh vật,
đều xây dựng bằng một nguyên liệu duy nhất,
nhưng có thể có nhiều tŕnh độ tiến hóa khác
nhau, thấp nhất là ở các vô sinh vật, và cao nhất
là ở loài người.
B. Bản thể của Vũ
Trụ theo các tôn giáo và triết học.
Nguyên liệu tối hậu của
vạn pháp đă được khoa học chứng minh là
đồng nhất, th́ ta có thể kết luận rằng
chúng đồng thể, cũng như khi ta thấy một
loạt xe hơi cùng một kiểu th́ kết luận rằng
chúng cùng từ một hăng sản xuất mà ra. Cái bản thể
đó, như một đoạn trên đă nói, hoàn toàn bất
khả tri đối với khoa học. Nhưng các tôn giáo
và triết học đă cố gắng đưa ra một
số giải đáp để cắt nghĩa bản thể
là ǵ, và do quá tŕnh nào mà nó biến thành vạn pháp, nghĩa là
từ cái Một biến thành cái Nhiều.
1) Một số tôn giáo hữu
thần, như Thiên Chúa giáo, đưa ra một giải
pháp rất giản dị : uyên nguyên của Vũ Trụ là
Thượng Đế. Ngài là đấng Tạo Hóa (créateur)
toàn năng, muôn vật trong Vũ Trụ chỉ là những
sở tạo (créature). Chính Thượng Đế đă tạo
ra mọi vật, từ các vật vô tri như đá, sắt,
vàng, cho đến các sinh vật như cây tùng, cây bưởi,
con ḅ, con người. Sự tạo ra Vũ Trụ là một
phép lạ; sự hiện hữu của con người có
tư tưởng, có t́nh cảm, cũng là một phép lạ,
một cái ǵ thiêng liêng, thánh thần chỉ nên chấp nhận
là sự ban ơn của Thượng Đế, chứ không
thể t́m hiểu. Và như vậy, bản thể của
Vũ Trụ là ǵ không thành vấn đề, đối với
tín đồ của tôn giáo đó. Họ chỉ trả lời
: đó là ư muốn của Thượng Đế, đó là phép
lạ của Thượng Đế.
2) Một số tôn giáo khác và
triết học, trái lại, không chấp nhận giải
đáp Thượng Đế, không tự hỏi sự tạo
ra Vũ Trụ có cần đến một phép lạ thánh
thần nào không, mà nh́n nhận luôn sự hiện hữu của
Vũ Trụ là một sự đă rồi, không thể chối
căi được. Và họ phỏng đoán rằng Vũ
Trụ khởi đầu là một khối hỗn mang,
độc nhất, mà Nho giáo gọi là Thái cực, Lăo giáo gọi
là Đạo, và Phật giáo gọi là Chân Như. Từ cái khối
hỗn mang nguyên thủy đó, cái Một tự phản chiếu,
rồi v́ sự phản chiếu đó mà thành ra Chủ Thể
và Khách Thể, cũng ví như một người đứng
giữa quăng không th́ chỉ có một ḿnh, nhưng khi soi ḿnh
vào mặt nước th́ thấy vừa có ḿnh, vừa có
h́nh bóng ḿnh trên mặt nước. Cái Khách Thể mới hiện
ra đó là Vạn pháp trong Vũ Trụ, gồm cả các vật
hữu h́nh và các thứ vô h́nh (thọ, tưởng, hành, thức),
c̣n cái Chủ Thể vẫn là Bản Thể của Vũ
Trụ, bàng bạc khắp nơi và khắp thời.
Triết gia Hegel, tổ sư của
Biện chứng pháp, đưa ra một yếu tố mới
để làm sáng tỏ vấn đề hơn, là yếu
tố mâu thuẫn nội bộ (contradiction interne)có sẵn
trong mọi sự vật, và cả trong bản thể
nguyên thủy. Ông chủ trương rằng có một Thực
Tế Tuyệt Đối mà ông gọi là ư Tưởng Tuyệt
Đối, nó trở lại soi sáng suy tư về chính nó. Sự
hồi quang phản chiếu đó đă khiến cho trạng
thái thuần nhất của ư Tưởng bỗng đột
khởi một mầm mâu thuẫn. Và chính mầm mâu thuẫn
này là động cơ xô đẩy ư Tưởng phải
rời bỏ trạng thái thuần nhất nguyên thủy,
phải tự phóng khí (auto-aliénation de l'esprit) để
bước vào lịch tŕnh hiện-tượng-hóa qua nhiều
giai đoạn : khoáng vật, thực vật, động
vật, rồi đến người.
Nói tóm lại, không những bản
thể của Vũ Trụ mà cả vấn đề Sáng
Thế (Création de l'Univers) vẫn c̣n là một vấn đề
bất khả tri đối với khoa học, c̣n các tôn
giáo và triết học chỉ có thể phỏng đoán mà
thôi, v́ nó đă là giới hạn giữa lănh vực của
tâm thức phàm trần và lănh vực của trí Bát Nhă siêu
phàm. Vậy hăy tạm để lại vấn đề bản
thể của Vũ Trụ (trong đó có Ta) để trở
về nhận xét các pháp trong Vũ Trụ.
C. Tính cách vô thường, vô ngă
và y tha khởi của các pháp.
1) Trước hết, ta nhận
thấy rằng cũng như Thân tâm ta, các pháp khác cũng
vô thường và vô ngă. Sông bồi núi lở, đó là chuyện
thường có thể thấy trong một đời
người. Đến cả các v́ sao trên bầu trời,
tưởng như vĩnh viễn, Thiên văn học cũng
cho ta biết rằng chúng cũng sinh trưởng, hoại
trong vài tỷ năm. Hoặc có người hỏi rằng
: Đă không thể thấy được những biến
đổi đó trong một đời người th́ làm
sao dám kết luận táo bạo như thế ? Câu trả lời
rất giản dị : Ta đi vào một khu rừng, thấy
các cây có cái mới mọc, có cái đang lớn, có cái già lăo
vài trăm năm, có cái đă mục nát. Vậy tuy chỉ
nh́n một cây cổ thụ, ta cũng có thể chắc chắn
rằng nó đă có lúc bé, rồi lớn lên, rồi thành cây cổ
thụ ngày nay, rồi một ngày kia sẽ mục nát và
đổ xuống. Thiên văn học cũng vậy, rất
ít khi được trực tiếp chứng kiến một
ngôi sao nổ tung, nhưng nh́n thấy đủ mọi loại
sao, trắng có, đỏ có, xanh có, bèn suy luận rằng
chúng đă qua và sẽ qua các thời kỳ sinh diệt.
2) Ta lại nhận xét thêm rằng
mỗi pháp cá biệt hiện hữu v́ có sự hiện hữu
của các pháp khác. Ví dụ sở dĩ có mưa là v́ có
nước các sông, hồ, bể bốc lên hơi nước
dưới sức nóng của mặt trời, rồi gặp
gió lạnh ở nơi khác thổi tới mà hơi nước
đọng lại thành giọt nước li ti, rồi những
giọt nước đó thu hút vào nhau tới một kích
thước nào đó đủ to và đủ nặng
để rơi xuống thànhƠ mưa. MộtƠ ví dụ khác
phức tạp hơn : Cái nhà ta đang ở, sở dĩ
có là v́ đă có cây mọc ở trên rừng, có người
đốn cây, có người cưa xẻ nó, biến nó
thành các khung cửa, có xă hội đă dậy nghề cho
người thợ đốn cây và thợ mộc, đă
cung cấp cơm áo và dụng cụ búa, cưa cho họ.
Các vật liệu khác để làm nhà như sắt, gạch,
xi-măng, thủy tinh, cũng đ̣i hỏi một chuỗi
điều kiện tương tự. Con người cũng
vậy, dù là con người thượng cổ ăn lông ở
lỗ, cũng không thể hiện hữu được nếu
không có các loại rau quả ăn được, và các giống
súc vật có thể bắt để ăn thịt. Nói chi
đến con người ở thế kỷ 20 này, bị
lệ thuộc muôn ngàn điều kiện khác : điện,
săng, tổ chức thương mại, giao thông, giáo dục,
hành chánh, tư pháp, v . v .
Do đó đạo Phật bảo
rằng các pháp đều y tha khởi, nghĩa là sự hiện
hữu của pháp nào cũng nhờ vào sự hiện hữu
của các pháp khác. Nghĩa là Y tha khởi cũng là vô ngă, cũng
như Vô ngă chỉ là Vô thường trong không gian. Và từ
ba nhận xét:
1. Ta vô thường và vô ngă.
2. Vạn pháp khác cũng vô thường và vô ngă.
3. Mỗi pháp y vào các pháp khác mà hiện hữu.
Ta đi đến kết luận
: Tất cả các pháp đều chỉ là dụng hay
tướng muôn h́nh vạn trạng của một bản
thể chung. Đến đây hết phần suy tư, và bắt
đầu phần sau và cũng là phần chính của công
phu mở Tuệ nhăn : Nhập vào ḍng hiện sinh của Vũ
Trụ, ḥa cái Tiểu ngă của ḿnh vào cái Đại ngă của
Vũ trụ.
III. Ta là Một
với Vũ Trụ.
Ta có thể kinh nghiệm
được sự kiện đó không, sự kiện
"Nhập vào ḍng hiện sinh của Vũ Trụ",
để thấy ḿnh là Một với Vũ Trụ ? Mới
nghe qua tưởng như đó là một sự kiện
mơ mộng, tưởng tượng, huyền bí;
nhưng thực ra nó chỉ là một trạng thái tâm lư
như vui, buồn, yêu thương, hận thù, không khác ǵ cả.
Có khác chăng là nó tự phát (spontané), khó tái lập theo ư muốn
hơn các trạng thái tâm lư kia. Ví dụ ta hận thù các tên
chính khách vô tài, vô hạnh đă đưa đất nước
ta đến cảnh điêu tàn ngày nay. Mỗi
khi ta đọc một bài báo kể lại sự sụp
đổ nhục nhă của miền Nam, cái hận thù
đó có thể bừng bừng khơi lại trong tâm ta. Nhưng trạng thái "nhập
vào ḍng hiện sinh của Vũ Trụ" th́ bất
thường hơn, có khi ḿnh không chờ đợi nó mà nó
tự nhiên đến, trái lại có khi ḿnh chờ đợi,
mong mỏi nó, t́m lại những cảnh cũ, hoặc nhớ
lại những sự việc đă khích động nó một
lần trước, th́ nó lại không xuất hiện nữa.
Tuy vậy, xin nhắc lại : Sự nhập vào ḍng hiện
sinh của Vũ Trụ để thấy ḿnh là Một với
Vũ Trụ, cũng chỉ là một trạng thái tâm lư,
không có ǵ tuyệt đối khác biệt. Và
tuy nó xuất hiện bất thần, không lệ thuộc
vào một điều kiện nào cả, nhưng cũng có
vài hoàn cảnh giúp nó dễ dàng xuất hiện hơn.
Tôi nói : dễ dàng hơn, thế thôi, chứ
không nói : chắc chắn sẽ xuất hiện đâu. Và xin thuật lại sau đây vài trường hợp
trong đó thuật gỉa h́nh như đă chứng nghiệm
bản thân ḥa đồng với vạn pháp.
A. Kinh nghiệm
khổ đau. Xin nói
ngay rằng thuật gỉa sinh trưởng trong một
gia đ́nh trung lưu, lúc tuổi trẻ được học
hành đầy đủ, rồi sau thi đỗ vào ngạch
tây sở Đoan, lương cao bổng hậu. Ngoài một
hai điểm khả thủ là bẩm tính thích đọc
sách và ḷng nhân hậu đối với thuộc cấp ở
sở và người làm ở trong nhà, c̣n rất nhiều
ham mê vật chất như tiệc tùng, xem hát bóng, tuồng
chèo, và đánh mạt chược. Và nhất là, cho tới
tuổi ngoài 30, chưa hề có một sự hiểu biết
trực tiếp về những nỗi thống khổ của
dân quê sống trong cảnh bùn lầy nước đọng,
dưới ách của cường hào ác bá và thực dân.
1) Điều thứ nhất
đánh bật thuật gỉa ra khỏi cái vỏ duy kỷ
đó là cuộc đói mùa đông 1944-1945. Mỗi sáng đi
từ nhà tới sở, gặp hàng chục xác chết khô
đét, đen sạm, không c̣n ra h́nh người, nằm la
liệt khắp vỉa hè, thảm cảnh đó bỗng
nhiên thức tỉnh thuật gỉa rằng ở đời
không sung sướng như ḿnh vẫn tưởng, rằng
có biết bao khổ đau mà ḿnh vô t́nh không biết tới,
rằng khổ đau của người khác khiến ḿnh
không thể nào an vui một cách ích kỷ được.
2) Cuối cùng, đến biến
cố 1975, phải bỏ quê hương đi t́m tự do
trên biển cả, tưởng thập tử nhất sinh,
không ngờ lại gập tầu Mỹ cho lên. ở đảo Wake hai tháng, rồi sau rời
đến trại Indiantowngap thuộc tiểu bang Pennsylvania. Quốc phá gia vong, sản nghiệp
tiêu tan, con cái c̣n vài đứa mắc kẹt ở lại,
đến đây mới nhận thấy thấm thía cuộc
đời là bể khổ. Cũng may ở trại tị
nạn thứ hai có thầy Giác Đức lập chùa tạm,
tối tối đều có lễ Phật và giảng kinh.
Với tâm lư đau khổ như trên, thuật gỉa
đă dễ dàng t́m thấy đường lối giải
thoát ở Phật giáo, dễ dàng hiểu được
chút ít những giáo lư đạo Phật : Vô thường,
Vô ngă, Nhân quả, Nghiệp, Luân hồi, và cả cái khó hiểu
nhất là thuyết Sự sự vô ngại và Lư sự vô ngại,
khiến ḿnh không những mở rộng ḷng từ bi,
thương sót người khác, mà c̣n cảm thấy rằng
ḿnh cũng là người khác, cái đau khổ của họ
đem lại đau khổ cho ḿnh, cái vui vẻ của họ
đem lại vui vẻ cho ḿnh.
B. Kinh nghiệm
ḥa đồng với Vũ Trụ.
1) Hồi c̣n ở quê nhà, đi
chơi chùa Láng, hồ Tây, băi biển Đồ Sơn, Sầm
Sơn, Nha Trang, lăng tẩm của cố đô Huế,
có nhiều lần ngồi thừ hàng giờ trên một mỏm
đá hay dưới một gốc cây, để ngắm cảnh
trời đất bao la. Và ḷng lâng lâng như tan biến vào
cái Không của Vũ Trụ, có cảm tưởng rằng
ḿnh là chiếc lá đang tung bay theo chiều gió tới núi
Côn Lôn, hoặc đợt sóng nhấp nhô trên đại
dương tới một núi Tu Di nào.
Nhà ở Saigon có một gác
thượng, nhiều đêm yên tĩnh thuật gỉa sau
khi đọc các truyện thần tiên như Đông du bát tiên,
Tây du, Phong thần, Lục gỉa tiên tung, Thất chân nhân
quả, mải mê tới quá nửa đêm, bèn mặc vào
người một chiếc áo len, rồi trèo lên gác thượng,
ngồi bán ǵa trên chiếc gối đem theo, và nh́n bầu
trời đầy sao. Rồi có cảm tưởng rằng
đó là những cơi Thiên nói trong kinh Phật hoặc cơi Tiên
nói trong các truyện Tầu, nghĩ rằng ḿnh trong một
kiếp trước đă từng sinh sống ở đó,
nên mới khao khát nó như thế, coi nó là quê hương thật
của ḿnh.
2) Ngày nay thân tàn ma dại, muốn
đi đâu quá 1, 2 miles là phải nhờ con cái hay bạn hữu
chở xe đi. Nhà ở lại không có gác thượng, chẳng
bao giờ lại có những buổi ngồi thẫn thờ
nh́n ngắm bầu trời bao la trong đêm tối. Không thể
tự tiện đi chơi các thắng cảnh nữa,
không có cả tủ sách đă hao phí bao nhiêu công của để
tom góp, rồi mất một lần ở Hanoi khi ra đi
kháng chiến năm 1946, mất lần thứ hai ở
Haiphong khi di cư vào Nam năm 1955, lại mất một lần
nữa năm 1975 khi phải rời bỏ quê hương.
Tâm tư bứt rứt không ngớt
trong mấy tháng đầu tị nạn ở Mỹ.
Nhưng rồi dần dần những ư nghĩ
thương tiếc, hận thù, hối hận bớt
đi. Nhớ lại kinh Hồi dương nhân quả và
thiên Thái Thượng cảm ứng, biết rằng trời
đất không bất công cũng không vô t́nh, muôn pháp đều
bị chi phối bởi luật Nhân Quả, thiện giả
thiện báo, ác giả ác báo, không bao giờ sai chạy, chỉ
có sớm muộn thôi, hoặc Quả đi liền sau Nhân
ngay trong kiếp này, hoặc đến kiếp sau mới
phát hiện.
Cuối cùng, đạt tới
tâm tư quên cả những giầy ṿ của quá khứ và
những lo lắng về tương lai, chỉ sống
trong giờ hiện tại thôi, tưởng tượng rằng
ḿnh là cây phong ở vườn bên cạnh, cây đào ở
vườn trước, chịu nắng ấm gió lạnh
qua các mùa, c̣n sống ngày nào hay ngày đó, chết đi th́ lại
tái sinh làm cây phong khác, cây đào khác, hoặc một kiếp
người khác, cái bản thể của ḿnh bàng bạc khắp
nơi và khắp thời gian, bất sinh bất diệt.
Và mặc dầu cái vision đó
c̣n cục bộ, chưa hẳn thấy ḿnh là một với
Vũ Trụ, nhất là c̣n lúc có lúc không, chưa được
liên tục, nhiều khi cái Tiểu ngă c̣n nổi dậy,
phân biệt bỉ thử, thiện ác, yêu ghét, nhưng cũng
đă hiểu được vài điều dùng luôn làm kết
luận.
Kết luận.
1) Phương pháp Thiền tông
kiến tánh thành Phật, vừa rất giản dị vừa
khó khăn vô cùng.
a) Nó giản dị v́ nói thẳng
rằng chúng sinh vốn là Phật tiềm tàng mà không tự
biết, chỉ cần bỏ mọi ảo tưởng do
thân tâm vô thường và vô ngă sinh ra là tự khắc thành Phật
thực sự.
b) Nó khó khăn là v́ từ muôn
ngàn kiếp, ta cứ bám vào thức, danh sắc, lục hợp,
xúc, thọ, ái, thủ, hữu, nên mới bị trầm
luân trong ṿng sinh tử luân hồi. Phá vỡ được
chuỗi xích Thập Nhị Nhân Duyên, tu theo Tịnh Độ
tông cũng có thể làm được nếu trong khi niệm
Phật nhất tâm bất loạn, cảm thấy giữa
ḿnh và Phật có sự hợp nhất hoàn toàn. Được
kết quả đó th́ không khác ǵ tu theo Thiền tông, mặc
niệm cảm thấy ḿnh là một với bản thể
Chân Như của Vũ Trụ, bất sanh bất diệt.
2) Để đạt tới kết
quả cảm thấy Vạn pháp nhất thể, bước
đầu tiên cho người tu theo Thiền tông hay Tịnh
Độ tông là mở rộng ḷng Từ Bi. Kinh Kim Cang dậy
: "Các Bồ Tát lớn nên hàng phục cái tâm như vầy
: Hết thảy những loại chúng sinh, ta đều làm
cho vào Vô dư Niết Bàn mà được diệt độ.
Diệt độ vô lượng chúng sanh như thế, mà
không chấp có chúng sanh được độ, có ḿnh
độ chúng sanh".
Đem áp dụng bài học đó
ra, tuy ta chưa là Bồ Tát, nhưng vẫn có thể mở
rộng ḷng từ bi đối với mọi người
khác, kể cả những người đă làm hại ta,
và đối với mọi loài súc vật nuôi trong nhà hay dă
thú. Dần dần bớt ăn thịt đi, và trước
hết bỏ cái tṛ đi săn, lấy đau khổ của
chim muông để t́m một thú vui dă man. Đối với
người, không nên có thành kiến, chớ vội chê
người mà mọi người đều chê, chớ lấy
bụng tiểu nhân mà đo ḷng thiên hạ. Biết đâu
trong hành vi xấu xa của họ lại chẳng có một
ẩn ư thiện nào mà ḿnh chưa hiểu ? Nếu quả
thật thấy họ đă sai quấy, th́ chỉ nên biết
để bụng thôi, và dùng gương xấu đó mà tự
răn ḿnh.
3) Để giúp cho tâm từ bi tiến
lên thành tâm tư siêu phàm của hàng Bồ Tát phải bỏ
tất cả các tướng Ngă, tướng Nhân, tướng
Chúng sanh, tướng Thọ giả. Phương pháp kiến
hiệu nhất là Tọa Thiền, bí quyết của nó có
thể tóm tắt như sau :
a) ư thức rơ ràng ḿnh đang
làm ǵ trong mỗi công việc, dù là viết văn, đào
đất, trồng cây, rửa mặt, quét nhà, không để
cho những loạn tưởng xâm nhập vào công việc
đang làm. Ví dụ đang trồng cây th́ chỉ nghĩ
đến trồng cây, chớ có nghĩ lan man đến
những cây cỏ bên nước nhà, những vườn
hoa t́nh tứ dưới mưa xuân ở gần làng Bưởi,
những chợ hoa rực rỡ dưới ánh sáng điện
trong những đêm cận Tết ở đại lộ
Nguyễn Huệ, hoặc chớ nghĩ đến cây này sẽ
lớn lên, mang quả, không biết lúc đó ḿnh c̣n sống
không để ăn quả cây ḿnh đang trồng đây ?
Nhất là khi đang tọa thiền
th́ lại càng cần ư thức ḿnh đang tọa thiền.
Điều thân th́ quán tưởng đầu và thân đă vững
vàng, ngay ngắn chưa, điều tức th́ quán tưởng
hơi thở, hít vô th́ quán tưởng thanh điện
đầy bụng rồi tràn lên phổi và vào tất cả
các tế bào trong thân thể, thở ra th́ quán tưởng
trọc điện trong người bị tống ra ngoài
qua xoáy đầu.
Sự ư thức đó mới
nghe th́ h́nh như rất tầm thường và dễ làm,
nhưng thật ra nó quan trọng vô cùng và cũng rất khó
thực hiện bền bỉ. Thành công trong việc quán
tưởng điều thân và điều tức là khởi
điểm đi tới thành công tối hậu của công
phu tu thiền.
b) ư thức về công việc
ḿnh đang làm rất khó giữ bền bỉ, v́ luôn luôn có
những loạn tưởng xâm nhập, phá vỡ công phu
quán tưởng. Vậy phải làm thế nào ? Cứ b́nh tĩnh
nhận diện chúng, tự khắc chúng sẽ tan biến
đi. Chỉ cần nhận diện chúng thôi, không nên cố
gắng xua đuổi chúng, v́ có sự cố gắng th́ sẽ
có phản động, cũng như đắp đê
ngăn sông th́ nước sẽ dâng cao và phá vỡ đê. Tốt
hơn là khơi những chi nhánh cho nước thoát dễ
dàng ra biển. Cũng vậy, mặc cho những loạn
tưởng xâm nhập, cứ thản nhiên nghĩ đến
thở ra hít vô, bóp bụng và ph́nh bụng, tự khắc
các loạn tưởng sẽ biến mất.
Nói một cách khác, ta phải
đạt tới tŕnh độ sự quán tưởng
thành một công việc thường xuyên tự nhiên, một
fonction organique, như quả tim nhịp nhàng bóp vào nở
ra, đâu có cần đến ư chí của ta ?
c) Tâm đă định rồi,
đă được thoải mái rồi, th́ mới đạt
được trạng thái hư không, và tâm có hư không mới
cảm giác được bản thể Chơn không của
Vũ Trụ, của vạn pháp, của thân tâm ta. Và lúc mà
ta tưởng không nh́n thấy ǵ th́ chính là lúc mà ánh sáng có thể
đột nhiên bừng phát hiện. Đó chính là ư nghĩa hai
câu sau đây mà một ông bạn túc nho đă trích trong Thái
Sơn kinh và Thạch Cốc kim cương kinh, và có nhă ư viết
tặng thuật giả :
Tâm chí hư thời
năng thụ ích
Mục đương ám xứ năi sinh minh.
3-Tịnh
Độ tông
A- Trên căn bản, không khác ǵ
Thiền tông.
V́ niệm Phật, cũng
như ngồi thiền, chủ ư là nhất tâm bất loạn,
là định tâm vào h́nh ảnh đức Phật, hoặc
vào niềm an lạc vô cùng của cơi Phật. Nếu một
tâm chẳng loạn, dù chẳng suy nghĩ về giáo lư
đạo Phật, cũng lo ǵ chẳng ngộ ? Cổ Đức
có kệ rằng :
Tham thiền niệm Phật bổn
lai đồng
Khán phá phân minh tổng thị không.
Công đáo tự nhiên toàn thể hiện,
Xuân lai ư cựu bách hoa hồng
nghĩa là :
Tham thiền niệm Phật lư
vốn đồng
Rơ ràng xem kỹ thẩy đều không.
Công đến tự nhiên toàn thể hiện,
Xuân về như trước trăm hoa hồng.
B- Nhưng phép tu có khác:
1/ Một là Tịnh Độ tông
muốn nhờ sức giúp đỡ của Phật để
bồi bổ tự lực của hành giả. Thật vậy,
tuy Phật nói : Phật và Tâm không hai, ngoài tâm không Phật,
nhưng trên thực tế chúng sinh căn cơ bậc
trung, bậc hạ không thể hiểu và dám nhận tâm ḿnh
là Phật. Nên phải dùng phương tiện niệm Phật
để cột tâm vào một duyên. C̣n đối với bậc
thượng trí, th́ quán thực tướng của Tâm hay
quán Phật cũng vậy.
2/ Hai là Tịnh Độ tông cho rằng
việc quán thật tướng của Tâm theo phương
pháp của Thiền tông khó quá. Trái lại, niệm Phật
rất dễ dàng, không cần mệt óc suy nghĩ. Cứ
niệm Phật nhất tâm bất loạn, chuyên giữ Phật
hiệu trong trí óc, gạt bỏ mọi vọng niệm,
th́ như nước khi lóng trong, trăng Phật sẽ tự
hiện. Trăng vốn chẳng đến, nhân nước
trong mà thấy hiện. Cũng vậy, khi lâm chung thấy
Phật nghinh tiếp, tức là tâm hiện Phật.
C- Nhưng có chắc như thế
không, có chắc rằng cứ niệm Phật cho đến
nhất tâm bất loạn là đủ đế thấy
Phật tâm hiển lộ không ?
1/ Chắc, v́ mỗi tiếng
niệm Phật là một tiếng chuông, một tiếng
nói vô minh của đức Phật A Di Đà nhắc nhở,
giữ ǵn ta trên đường đạo pháp. Nếu ta
niệm đúng cách (tâm niệm chứ không phải khẩu
niệm), nghĩa là biết dùng câu niệm Phật để
trau dồi sửa tánh, tà niệm không c̣n phát sanh, tham sân si
diệt được, th́ thất t́nh lục dục cũng
phải diệt theo, sẽ đắc quả thành Phật.
Chừng ấy th́ :
Nhất cú Di Đà vô biệt niệm
Bất lao đàn chỉ đáo Tây phương.
nghĩa là :
Một câu Di Đà không tưởng
khác,
Chẳng nhọc khảy tay đến Tây phương.
2/ Chắc, nhưng với
điều kiện là hành giả phải có tín tâm thật mạnh,
hết sức tin tưởng rằng đức Phật
A-Di-Đà sẽ đến đón ta lúc lâm chung,
không lúc nào được có một thoáng nghi hoặc. Thế
cho nên Tịnh Độ tông thích hợp với những tâm hồn
chất phác, ít thắc mắc, chứ những người
có óc lư luận, nhất là những người có chút tây học,
dù cho nhận biết ưu điểm tuyệt đối
của Tịnh Độ tông, cũng khó mà theo pháp môn này. Họ
phải suy nghĩ t́m hiểu cái thật tướng của
vũ trụ, của tâm họ, nhiên hậu họ mới dốc
ḷng tin được. Và một khi họ đă dốc ḷng
tin, th́ tất nhiên họ sẽ giác ngộ cao hơn những
người kia.
Bát Nhă Ba
La Mật Đa Tâm
Kinh.
Định nghĩa.
Bát Nhă : tiếng
Phạn là Prajna, có nghĩa là trí tuệ đặc biệt,
khác với :
- tục trí
của phàm nhân giỏi về nghệ thuật, thi văn,
hoặc khoa học
- trí hữu
lậu của bậc ngoại đạo có nhiều phép thần
thông
- tiểu
trí của bậc tiểu thừa đă thoát khỏi ṿng
sinh tử.
Riêng trí tuệ của các vị
Bồ Tát mới được gọi là trí tuệ Bát Nhă,
v́ nh́n thấu bản thể của mọi sự vật,
bỏ hiện tượng giả dối mà đạt tới
Chân Không Diệu Hữu.
Ba La Mật Đa : tiếng Phạn
là Paramita, nghĩa là đáo bỉ ngạn, đến bờ
bên kia là bờ giải thoát, c̣n bờ bên đây là bờ mê
muội, nổi ch́m trong sinh tử luân hồi.
Tâm kinh : có thể hiểu là
kinh tâm yếu của bộ kinh Đại Bát Nhă. Nhưng cũng
có thể hiểu là kinh nói về Chơn Tâm, chứ không phải
là kinh nói về ái, ố, ai, lạc, v . v .
Tầm quan trọng của kinh
Bát Nhă.
Kinh này rất ngắn, gồm
260 chữ Hán, nhưng là tinh túy của bộ kinh Đại Bát
Nhă dày tới 600 quyển. Do đó, nó rất cô đọng,
thâm thúy, chỉ đưa ra một số quyết đoán
mà không hề giải thích lư lẽ. Người Phật tử
phải t́m cho ra lẽ, bởi v́ nếu hiểu rơ kinh này
th́ sẽ được kết quả như Quán Tự Tại
Bồ Tát, độ nhất thiết khổ ách. Quán Tự
Tại Bồ Tát thường được coi là Quán Thế
Âm Bồ Tát, nhưng ta có thể mở rộng ra mà nói rằng
bất cứ vị Bồ Tát nào đă có thể tùy theo ư
ḿnh (tự tại) thông suốt, quán triệt (quán) lẽ
nhiệm mầu của vũ trụ và con người,
đă tự giác và giác tha, th́ đều có thể chiếu
kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết
khổ ách.
Quyết
đoán thứ nhất :
"Ngũ uẩn giai không, sắc
tức thị không, không tức thị sắc, thọ
tưởng hành thức diệc phục như thị
". Nói một cách khác, cái ǵ có h́nh sắc như muôn vật
trong vũ trụ, núi sông, cây cỏ, nhà cửa, và cả
thân ta do tứ đại hợp thành, chỉ là giả có,
không phải thật có.
Tại sao vậy ? Ta có thể
giải thích quyết đoán này bằng lối suy luận
như sau :
1) Lư Vô Thường :
Cái ǵ ở trong vũ trụ cũng
không bền vững : núi sạt, sông lở, các thực vật
là cây cối mọc rồi tàn, các động vật
như người và trâu ngựa, đều có sinh diệt.
Không một pháp nào là hằng c̣n vĩnh viễn. Ta chỉ
có thể nói rằng nó tạm thời có khi một số
nhân duyên tụ họp, đến khi những nhân duyên kia
ĺa tan th́ nó sẽ đi vào hư vô, vậy không thể nói
là nó thực có, tự có.
2) Lư luận của đại
đức Nagasena :
Một ngày kia, vua Milinda đến
thăm đại đức và hỏi :
- Đại đức pháp danh là ǵ ?
- Tâu Đại Vương, Ngài tới đây bằng ǵ ?
- Cỗ xe ngựa.
- Cỗ xe ngựa của Đại Vương có phải là gọng
xe, hoặc mui xe, thân xe, bánh xe không ?
- Không.
- Vậy, không có ǵ thực là cỗ xe, nó chỉ là sự tổng
hợp của một số bộ phận là gọng, mui,
thân, bánh xe. Cũng vậy, tâu Đại Vương, bạn
đồng đạo gọi bần tăng là Nagasena,
nhưng thật ra chẳng có cái ǵ là Nagasena cả, mà chỉ
có một mớ tóc, da, thịt, xương, v . v .
Khoa học ngày nay c̣n cho ta biết
thêm rằng thân thể ta, cũng như bàn ghế, nhà cửa,
núi sông, chỉ là tổng hợp của một số nguyên
tử, và nguyên tử nào cũng là tổng hợp của một
số điện tử : dương điện tử,
âm điện tử, trung ḥa tử, v . v .
3) Nhưng lư lẽ hay nhất
của quyết đoán Sắc tức thị Không, là các
pháp chỉ được nhận thức tương
đối với mỗi loài hữu t́nh, chứ không có pháp
nào tuyệt đối tự ngă đối với mọi
loài. Ví dụ quyển sách này, đối với chúng ta th́
là quyển sách, nhưng đối với con mọt th́ nó
là một kho lương thực. Nước đối với
loài cá là chỗ ở yên lành, nhưng đối với loài
người th́ là chỗ không thể sống được.
Ngược lại cũng vậy, người sống ở
trong không khí, nhưng cá sẽ chết ở trên cạn. Vậy
th́ không có quyển sách tuyệt đối, không có nơi
sinh sống tuyệt đối, những cái đó chỉ
có giá trị và ư nghĩa tương đối với loài
người mà thôi.
Khoa học ngày nay c̣n cho ta biết
thêm rằng trong các luồng sóng từ điển của vũ
trụ, mắt ta chỉ nhận thức được một
khoảng rất nhỏ mà ta gọi là ánh sáng, c̣n những
luồng sóng ngắn hơn ánh sáng tím, hoặc dài hơn ánh
sáng đỏ, th́ mắt ta không nh́n thấy. Cũng vậy,
trong các luồng sóng của không khí, ta chỉ nghe được
một khoảng rất nhỏ, c̣n những âm thanh có luồng
sóng dài quá hay quá ngắn th́ tai ta không nghe thấy được.
Vậy giả dụ ta có đôi mắt hay đôi tai khác
thường, nh́n thấy tất cả những quang tuyến
X và luồng sóng vô tuyến điện, và nghe thấy cả
những âm thanh trên hoặc dưới âm giai ta vẫn
thường nghe thấy, th́ vũ trụ này sẽ hiện
ra với ta một cách khác, ngh́n vạn lần kỳ lạ
hơn những Bồng Lai tiên đảo của Từ Thức
và của Bát Tiên Qúa Hải.
Đó là sự thật một
trăm phần trăm, do khoa học chứ không phải Phật
giáo nói ra, nhưng chúng ta v́ nghiệp đă tạo từ
muôn ngàn kiếp trước, nên vô minh, không dễ dàng cảm
thấy được. Muốn cảm thấy cái lẽ Sắc
tức thị Không, ta c̣n phải tốn nhiều công phu tu
hành, nhưng ít nhất ta cũng nên cố hiểu, đừng
vội vàng cho lẽ đó là vô lư, v́ hiểu là bước
đầu để đi đến cảm thấy. Nếu
ta vẫn vô minh, vẫn không chịu t́m hiểu rằng thân
ta, tâm ta, tiền bạc, danh vọng, và cả cha mẹ vợ
con ta đều là giả cả, th́ công phu tu hành của ta
sẽ không bao giờ đạt tới trí Bát Nhă, không bao giờ
độ được nhất thiết khổ ách.
Quyết
Đoán Thứ Hai :
Sắc tức thị Không,
nhưng cái Không đó không phải là trống rỗng, là
không có ǵ cả, mà là Chân Không Diệu Hữu, tức là cái bản
thể của mọi pháp, từ đó sinh ra mọi pháp, mọi
hiện tượng. Kinh Bát Nhă không cho ta biết cái Chân
Không Diệu Hữu như thế nào, có những đặc
tính rơ rệt nào, mà chỉ nói đến đặc tính tiêu
cực của nó : Cái tướng không của chư pháp bất
sinh bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất
tăng, bất giảm. Giải thích như thế quả
thật không làm cho chúng ta hiểu cái Bản Thể Chân
Như là cái ǵ. Tuy vậy chúng ta thử giải quyết vấn
đề nan giải đó bằng cách chia nó ra làm hai đối
tượng cho dễ nhận xét : cái ǵ là bản thể Vũ
Trụ? và cái ǵ là bản thể của con người, một
thành phần của Vũ Trụ ?
a) T́m hiểu Vũ Trụ :
Chúng tôi xin nhắc lại khoa học ngày nay cho ta biết rằng
nguyên liệu tối hậu của vạn pháp là chất
năng lượng, là các hạt điện dương,
âm, hoặc trung ḥa, có những năng lực kỳ diệu
là từ điện (force électro magnétique), hạch tâm (force
nucléaire), và hấp dẫn (gravitation). Nhưng tại sao và
do đâu mà vật chất có những năng lượng
đó ? Khoa học chịu không thể trả lời
được, dành phần cho các tôn giáo và triết học
đưa ra một số giải đáp để cắt
nghĩa Bản Thể Vũ Trụ là ǵ, và do quá tŕnh nào mà
nó biến thành vạn pháp, nghĩa là từ cái Một biến
thành cái Nhiều.
1) Một số tôn giáo hữu
thần, như Thiên Chúa giáo, đưa ra một giải
pháp rất giản dị: uyên nguyên của Vũ Trụ là
Thượng Đế. Ngài là Đấng Tạo Hóa (Créateur) toàn
năng, muôn vật của vũ trụ chỉ là những
sở tạo(créatures). Chính Thượng Đế đă tạo
ra mọi vật, từ các vật vô tri như đá, sắt,
vàng, cho đến các sinh vật như cây tùng, cây bưởi,
con ḅ, con người. Sự tạo ra vũ trụ là một
phép lạ, sự hiện hữu của con người có
tư tưởng, có t́nh cảm, cũng là một phép lạ,
một cái ǵ thiêng liêng, thánh thần, chỉ nên chấp nhận
là sự ban ơn của Thượng Đế, chứ không
thể t́m hiểu. Và như vậy, Bản Thể của
Vũ Trụ là ǵ không thành vấn đề, do đâu mà Một
biến thành Nhiều cũng không thành vấn đề,
đối với những tín đồ của tôn giáo
đó. Họ chỉ trả lời : đó là ư muốn của
Thượng Đế, đó là phép lạ của Thượng
Đế.
2) Một số tôn giáo khác và
triết học, trái lại, không chấp nhận giải
pháp Thượng Đế, không tự hỏi sự tạo ra
Vũ Trụ có cần đến một phép lạ thánh thần
nào không, mà nh́n nhận luôn sự hiện hữu của Vũ
Trụ là một sự đă rồi, không thể chối
căi được. Và họ phỏng đoán rằng Vũ
Trụ khởi đầu là một khối hỗn mang,
độc nhất, mà Nho giáo gọi là Thái Cực, Lăo giáo gọi
là Đạo, và Phật giáo gọi là Chân Như. Rồi khối
hỗn mang nguyên thủy đó, cái Một tự phản chiếu,
rồi v́ sự phản chiếu đó mà biến ra Chủ
Thể và Khách Thể, cũng ví như một người
đứng giữa quăng không th́ chỉ có một ḿnh,
nhưng khi soi ḿnh vào mặt nước th́ thấy vừa
có ḿnh, vừa có h́nh bóng ḿnh trên mặt nước. Cái khách
thể đó là vạn pháp trong vũ trụ, c̣n cái chủ
thể vẫn là bản thể của Vũ Trụ, bàng bạc
khắp nơi và khắp thời. Và tới đây, chúng ta
hơi hiểu một phần nào cái "Không tính " nói
trong kinh Bát Nhă, bằng lư luận tương tự
(raisonnement par analogie) :
Nó bất sinh bất diệt
như thời gian vô thủy vô chung, như không gian vô tận
vô hạn. C̣n nó bất cấu bất tịnh, bất
tăng bất giảm, không như các pháp hữu h́nh hữu
sắc, v́ nó đă vô h́nh vô sắc th́ c̣n cấu tịnh vào
đâu, c̣n tăng giảm chỗ nào được ?
b. T́m hiểu Ta : Trên đây
chúng tôi đă tŕnh bầy rằng Ta gồm có một phần
vật chất thường gọi là Thân, nhà Phật gọi
là Sắc, và một phần tinh thần thường gọi
là Tâm, nhà Phật gọi là Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
Và chúng tôi cũng đă tŕnh bầy rằng cả thân và tâm
đều không có tự ngă. Trở lại một thí dụ
đă cũ nhưng rất đúng, ta có thể nói :
Cái thân ta là một lữ quán,
lúc đầu c̣n nhỏ bé, rồi khuyếch trương
lên, xây thêm nhiều pḥng ốc, và cuối cùng siêu vẹo, bị
phá đi để xây dựng một cái lữ quán mới.
Nó không phải là ông chủ cái lữ quán đó.
Các tâm sở của ta là những
khách tới trọ, một vài giờ, một vài ngày, rồi
lại ra đi ; chúng cũng không phải là chủ nhân của
cái lữ quán đó. Chủ nhân cái lữ quán là cái Thực
Ta, cái Chân Ngă, bất sinh bất diệt, trước khi làm
chủ cái lữ quán đó th́ đă làm chủ nhiều lữ
quán xa xưa, và sau khi các lữ quán kia đổ nát th́ lại
làm chủ một lữ quán mới, măi măi vô cùng tận.
Những người theo chủ
nghĩa vật chất bảo rằng khi thân thể chết
là hết, làm ǵ c̣n linh hồn sống sót để nhập
vào một cơ thể khác, tiếp tục ṿng sinh tử
luân hồi. Sự nhận xét đó của họ, mới
xét qua th́ tưởng như rất thực tế, khoa học,
gạt bỏ mọi mê tín, nhưng thật ra th́ chẳng cắt
nghĩa được cái ǵ cả. V́ dù là khoa học đời
nguyên tử này, đời hỏa tiễn liên hành tinh này,
khoa học vẫn chịu không cắt nghĩa được
sự sống là ǵ, tư tưởng là ǵ, do đâu mà có ?
Chủ nghĩa vật chất bất lực để cắt
nghĩa cái phép lạ đó, cái mà chúng ta gọi là Chân Ngă, hoặc
Phật tính, hoặc Linh Quang (étincelle divine) cũng
được. Nó cũng không thể cắt nghĩa
được nhiều sự kiện khác, như có người
sinh ra được hưởng giầu sang trong khi có
người phải chịu nghèo hèn suốt đời, có
người đẹp, có người xấu, có người
thông minh, có người ngu dốt, v . v . Nếu bảo rằng
đó là do ngẫu nhiên th́ vô lư quá, chỉ có thể cắt
nghĩa bằng luật Nhân Quả, nghĩa là phải chịu
chấp nhận có một bản thể tồn tại vĩnh
viễn, và do nghiệp lực dẫn tâm thức người
chết tới một kiếp sống khác để hưởng
hoặc chịu quả của nhân tạo ra trong kiếp
trước.
Quyết Đoán Thứ Ba :
Không những bài Tâm kinh phủ
nhận các pháp thế gianƠ :Ơ " Vô nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt,
thân, ư, vô sắc, thanh hương, vị, xúc, pháp, vô nhăn giới
năi chí vô ư thức giới "; mà c̣n phủ nhận cả
các pháp xuất thế gian : "Vô vô minh diệc, vô vô minh tận,
năi chí vô lăo tử diệc, vô lăo tử tận" tức
là phủ nhận bài học Thập Nhị Nhân Duyên ;"Vô
khổ, tập, diệt, đạo" tức là phủ
nhận bài học Tứ Diệu Đế ; "Vô trí diệc
vô đắc, dĩ vô sở đắc cố" tức
là phủ nhận phép tu Lục độ : bố thí, tŕ giới,
nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí huệ.
Sở dĩ đức Phật
làm như vậy, là v́ sau khi đả phá cái chấp Hữu
của thế gian, Ngài e rằng chúng sinh lại chấp Vô
của cái bài thuyết pháp của Ngài. Kinh Kim Cang nói rơ ư
đó : "ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" nghĩa
là muốn giải thoát khỏi các khổ năo th́ không
được chấp cả thiện, bồ đề,
niết bàn, phải đạt tới tâm B́nh Đẳng, coi
thiện ác như nhau, coi Bồ Đề và vô minh như nhau,
coi Niết Bàn và Ta Bà như nhau. Tại sao vậy ? V́ c̣n
phân biệt thiện ác th́ c̣n yêu thiện ghét ác, tức là
c̣n tâm thiên vị. V́ c̣n phân biệt Bồ Đề và Vô Minh th́
tức là chưa hiểu rằng mỗi chúng sinh đều
có Phật tính, không bao giờ mất cả, như Lục
Tổ Huệ Năng đă nói :
"Bồ Đề bổn
vô thụ
Minh kính diệc phi đài
Bổn lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai ?"
Bản dịch của Thích
Thanh Từ:
Bồ Đề
vốn không cây,
Gương sáng cũng chẳng đài,
Xưa nay không một vật,
Chỗ nào dính bụi bặm ?
V́ c̣n phân biệt Niết Bàn với
cơi Ta Bà, tức là chưa hiểu rằng thiên đường
hay địa ngục cũng chỉ ở trong tâm mà thôi,
tâm mà tĩnh th́ dù ở Ta Bà cũng an lạc, c̣n tâm mà động
th́ ở cơi thiên đường cũng bị phiền năo.
Quyết
Đoán Thứ Tư.
Ngay câu đầu của bài Tâm
kinh đă nói rơ dụng của trí Bát Nhă, là độ nhất
thiết khổ ách. Đến vài đoạn sau, lại nói rơ
thêm ư nghĩa đó :
"Bồ Đề tát đỏa,
y Bát Nhă ba la mật đa cố, tâm vô quải ngại, vô quải
ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên
đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn. Tam
thế chư Phật, y Bát Nhă ba la mật đa cố,
đắc A Nậu đa la tam miệu tam bồ đề"
Đoạn này có phân biệt phẩm
Bồ Tát với phẩm Phật. Là v́ tuy các vị Bồ
Tát không c̣n tham sân si nữa, nhưng c̣n có thể e ngại rằng
chúng sinh quá nhiều, khó độ được hết.
Chỉ những vị Bồ Tát quán tự tại và các Phật,
đă nương theo Bát Nhă ba la mật đa , mới hoàn
toàn giải thoát.
Nhân tiện đây xin nói luôn về
câu chú kết thúc và cũng tóm tắt bài Tâm Kinh : "Yết
đế, yết đế, v . v ." Theo một học
giả Trung Hoa và một học giả Âu Tây th́ câu chú đó
có nghĩa là :
Độ khứ, độ
khứ Cứu cánh độ khứ Cứu cánh chúng độ
khứ Giác ngộ tốc viên thành.
Kết Luận.
Như trên kia chúng tôi đă nói,
bài Tâm Kinh là tài liệu quan trọng nhất của giáo lư
đạo Phật. Hiểu được nó, biến nó
thành máu tủy của ḿnh, phản ứng với ngoại
cảnh và nội tâm bằng triết lư đó, th́ tự khắc
sẽ giải thoát được mọi nỗi thống
khổ h́nh như là định mệnh con người.
Hoặc có người cho rằng
bài Tâm Kinh đưa ra một triết lư tiêu cực, hư
vô, biến con người thành vô tri, vô giác như loài thảo
mộc, tuy không c̣n cảm thấy khổ nữa nhưng
đồng thời mất cả những sinh thú trên đời,
trốn tránh luôn cả trách nhiệm trên đời.
Nhưng nghĩ như thế là lầm. Ta cứ đọc
kỹ lại đoạn đầu của bài Tâm Kinh th́ thấy
tuy nói rằng "Sắc bất dị Không ", nhưng
cũng nói luôn "Không bất dị Sắc". Đó, tuy biết
rằng tất cả là không, nhưng ngoài cái Không, không t́m
ra đâu cái Có, ngoài hiện tượng không t́m ra đâu bản
thể, ngoài sóng không t́m ra nước, ngoài cái thân tứ
đại này làm ǵ có tâm, và ngoài cái tâm này làm ǵ có càn khôn vũ
trụ, sơn hà, thảo mộc, chúng sinh và cả Phật
nữa. Vậy chúng ta nên luôn luôn nhớ rằng đạo
Phật không phải là một giáo lư hư vô (nihiliste), mà là
một giáo lư vô cùng mầu nhiệm, phi hữu phi vô, diệc
hữu diệc vô. (chẳng có chẳng không, cũng có cũng
không)
Khi đạo Phật nói Vô, tức
là bảo ta không cần phải quan tâm đến những
cái khổ năo giả tạo của chúng sinh vô minh. Ta nghèo tiền
của, ta ở địa vị hèn kém trong xă hội, ta có
người thân thuộc bị sinh ly tử biệt,
nhưng nếu ta có được trí Bát Nhă th́ sẽ không
khổ v́ biết rằng tiền bạc, danh vọng, liên
hệ gia đ́nh, tất cả chỉ là giả hữu mà
thôi, đều là Vô.
Vô mà cũng là Hữu, hai cái
đó như là hai mặt của cùng một đồng tiền.
Ví dụ như tiền bạc một mặt là Vô, mất
nó không cần khổ sở, muốn kiếm nó cũng không
cần phải lao tâm khổ trí quá đáng. Một mặt
khác tiền bạc cũng là Hữu, v́ có nó ta mới cứu
giúp được những người nghèo khổ, mới
tham gia tích cực vào các công tác xă hội, tôn giáo, quốc
gia. Ngay cái thân mệnh của ta cũng vậy, nó vừa là
Vô, ta phải coi nó như sợi lông hồng, phải b́nh tĩnh
chờ ngày lâm chung ; nó lại vừa là Hữu, ta phải cẩn
thận giữ ǵn nó để có thể làm tṛn nhiệm vụ
của người con, người cha, người công
dân, người Phật tử, v . v .
Nói tóm lại, đạt
được trí Bát Nhă th́ một mặt thấy thân tâm vô
cùng an lạc, hạnh phúc ở ngay trong tâm ta, không chờ
đợi tiền bạc, danh vọng, chính quyền, và các
vị thánh thần, Phật tiên nữa. Và một mặt
hăng hái thực hiện Bi, Trí, Dũng, bố thí tài, pháp,
vô úy cho chúng sinh, sẵn sàng xả thân v́ tổ quốc, v́
đạo pháp.
Kinh Bát Đại
Nhân Giác.
Đại cương.
1. Bộ kinh này không phải do đức Phật nói ra
ở một địa điểm và ở thời gian nhất
định nào (như các kinh Kim Cang, A Di Đà, v . v .), mà là do
ngài An Thế Cao, người nước An Tức (thuộc
xứ Ba Tư) rút những phần tinh yếu của Phật
pháp mà soạn ra, rồi dịch sang tiếng Hán, dưới
đời Đông Hán (tức là vào khoảng thế kỷ 1 hoặc
2 sau Kỷ nguyên).
Tên kinh là Bát Đại Nhân Giác, nghĩa là tám điều hiểu
biết của các bậc đại nhân, tức là Phật
và Bồ Tát, và có thể gồm cả các vị cao tăng
và cư sĩ có cơ duyên đặc biệt. Trong kinh, có
chỗ ghi là giác ngộ, có chỗ ghi là giác tri. Hai danh từ
đó có ǵ khác nhau không ? Cùng nghĩa là hiểu biết,
nhưng có lẽ chữ Ngộ hàm ư thốt nhiên hiểu,
dưới một cảm xúc mănh liệt nào đó, như sực
tỉnh sau một giấc mơ, c̣n chữ Tri th́ thiếu
yếu tố thốt nhiên đó.
2. Tám điều hiểu biết đó, ta nên chia làm 3
phần để thấy rơ đại ư của bộ kinh
:
a) Phần hiểu biết về những giáo lư căn
bản, làm cơ sở cho Phật pháp, là Vô Thường,
Vô Ngă, và Khổ Đế (đệ nhất giác ngộ)
b) Phần giác tri về những nguyên nhân gây ra khổ
- Đa dục (đệ nhị)
- Bất tri túc (đệ tam)
- Giải đăi (đệ tứ)
- Ngu si (đệ ngũ)
- Bần bách (đệ lục)
c) Phần giác ngộ về hướng tu :
- Tạm thời cho cư sĩ : bất nhiễm dục
lạc và chí nguyện xuất gia (đệ thất)
-Ơ Rốt ráo cho hàng Bồ Tát nhưng mọi Phật tử
đều nên theo : phát Bồ Đề tâm và phổ tế nhấtƠ
thiết (đệ bát).
Đệ Nhất
Giác Ngộ.
1. Lư Vô Thường. Từ thân tâm con người cho tới
sông núi, cây cỏ, thời tiết, v.v. tất cả đều
vô thường, biến dịch. Nhận xét này quá hiển
nhiên, bất tất phải giải thích.
2. Lư Vô Ngă, có 2 nghĩa : Một là phá chấp cái tiểu
ngă của ḿnh, và hai là phá chấp sự tin tưởng vào
một linh hồn bất diệt, đời đời y
nguyên.
a) Nghĩa thứ nhất có thể giải thích bằng
nhiều cách : Như lời tu sĩ Nagasena trả lời
vua Milinda, rằng cái ǵ cũng chỉ là tổng hợp của
nhiều bộ phận, do nhân duyên hợp th́ thành, nhân duyên
tan th́ diệt. Hoặc v́ tất cả các pháp đều
tuân theo định luật Trùng trùng duyên khởi, không có cái
nào hoàn toàn độc lập tự sinh. Nhưng lối giải
thích thỏa đáng nhất, theo thiển ư, là mỗi pháp
được nhận thức tùy theo cộng nghiệp và
biệt nghiệp của mỗi chúng sinh (Duy Thức học).
Ví dụ cái ghế là một dụng cụ để ngồi
đối với người, nhưng lại là kho
lương thực cho con mọt gỗ, không có cái ghế
tuyệt đối cho mọi loài chúng sinh.
b) Tại sao Phật giáo lại chủ trương phá
tin tưởng vào một linh hồn bất diệt ? V́
người nào tin linh hồn bất diệt, đời
đời y như vậy, ác vẫn là ác, thiện vẫn
là thiện, th́ người đó sẽ không chịu tu thân
để cải thiện kiếp sau, hoặc nghĩ rằng
không có kiếp tái sinh, khi chết sẽ được lên
Thiên Đường hoặc bị đầy xuống Địa
Ngục theo hành vi của kiếp sống này mà thôi. Phật
giáo đă chủ trương thuyết Luân Hồi và thuyết
Nghiệp Báo, nên cũng chủ trương luôn không nhận
có linh hồn bất diệt.
3. Đời là khổ. Tại sao ? V́ có sinh th́ có bệnh,
lăo, tử, là những khổ không thể tránh được.
Hơn thế nữa, những cái tạm gọi là vui,
như thi đỗ, làm giầu, được quyền
cao chức trọng, v.v., ta phải lao tâm khổ tứ
để được nó, để giữ nó, và đôi
khi cũng mất nó v́ nó vô thường.
Đệ Nhị
Giác Tri
1. V́ thân tâm con người là ngũ ấm : sắc, thọ,
tưởng, hành, thức nên thường đắm vào ngũ
dục là : tài (tiền bạc), sắc (sắc đẹp),
danh (công danh), thực (ăn uống), và thùy (ngủ, nghỉ).
2. Càng nhiều dục càng khổ (v́ những lư do
đă tŕnh bầy ở đệ nhất giác ngộ).
3. Bởi vậy, cách bớt khổ là thiểu dục
vô vi, không tạo thêm nghiệp nữa. Chúng sinh phải kiểm
soát những dục, không để cho chúng quá độ, và
nhất là rơi vào bất chính, nghĩa là tối thiểu
không nên tạo ác nghiệp. C̣n bậc Bồ Tát th́ không tạo
cả thiện nghiệp nữa, như bố thí mà không thấy
ḿnh bố thí.
Đệ
Tam Giác Tri
1. Chúng sinh tâm vô yểm túc, nghĩa là không chán thèm muốn
nhiều hơn nữa, không biết thế nào là đủ.
Bất tri túc cũng gần đồng nghĩa với
đa dục, v́ ham muốn nhiều tức là không biết
thế nào là đủ, có một muốn mười, có voi
đ̣i tiên. Tâm chúng sinh là như vậy, là túi tham không
đáy. Do đó mà tăng trưởng tội ác.
2. Bồ Tát không thế, tri túc, chịu nghèo để
giữ đạo, lấy huệ làm sự nghiệp cứu
cánh. Hai sự nghiệp của chúng sinh và Bồ Tát, một
là thỏa măn ḷng dục vô tận, một là mở mang trí
huệ. Hai cái đó không thể đi đôi với nhau
được. Phải lựa chọn lấy một,
không thể ôm đồm cả hai. Những người mê
man theo đuổi danh lợi, nghĩ rằng việc
đó không hại đến đức hạnh, là tự dối
ḿnh.
Đệ Tứ
Giác Tri.
1. Giăi đăi là biếng nhác, không chịu siêng năng tu
tập, sẽ bị trụy lạc, nghĩa là rơi vào tội
lỗi. Tại sao ? V́ giăi đăi chỉ là phương diện
tiêu cực của đa dục, là tự buông lơi, để
cho tâm trôi theo những dục, không có hùng tâm tráng chí chống
lại chúng.
2. Trái lại, phải tu hạnh tinh tấn, không có nghĩa
là làm việc hăng hái để mưu danh lợi, để
kiến tạo nghiệp thế gian, mà là hăng hái chuyên cần
để kiến tạo huệ nghiệp.
3. Nếu tinh tấn th́ đánh bại được
tứ ma. Tứ ma là ǵ ? Theo đạo Phật, cái ǵ phá hoại
sự thành công của ḿnh, th́ gọi là ma. Có tứ ma là:
- phiền năo ma, tức là tham, sân, si.
- ngũ ấm ma, là sắc, thọ, tưởng, hành,
thức, tức là thân và tâm thức, nên mới dễ bị
cám dỗ vào ngũ dục.
- tử ma, theo thiển ư, không phải là ma chết, mà
là kư ức những lỗi lầm trước,
thương tiếc những dịp giầu sang đă bỏ
lỡ. Chúng gây ra tâm trạng phiền năo, hối tiếc.
Xin nói thêm rằng sám hối khác rất xa hối tiếc. Hối
tiếc là hiện nay vẫn c̣n phiền năo về những
sự việc đă qua, c̣n sám hối là hiện nay đă biết
hổ thẹn về những sự việc đó, đă
ra khỏi được tâm trạng phiền năo. Ví dụ
hối tiếc là tấm áo bẩn chưa giặt, c̣n sám hối
là tấm áo bẩn đă được giặt sạch sẽ.
- thiên ma, cũng theo thiển ư, không phải là ma trời,
mà là những hy vọng hăo huyền, hoặc những lo sợ
về tương lai. Trái lại, người tu hạnh
tinh tấn không hy vọng hoặc lo sợ vớ vẩn,
tin vào đạo hạnh của ḿnh đủ đối
phó với mọi hoàn cảnh, ví như cây thông không sợ
ǵ gió băo phũ phàng.
4. Và người tu hạnh Tinh tấn sẽ đem
được ngũ ấm của ḿnh (thân tâm) ra khỏi
ngục tam giới là Dục giới, Sắc giới, và Vô
sắc giới. Tại sao Tam giới lại gọi là ngục
? V́ chưa hoàn toàn thoát ly khỏi ṿng sinh tử luân hồi,
dù ở Vô sắc giới.
Đệ Ngũ
Giác Tri.
1. Ngu si sanh tử, nghĩa là ngu si th́ bị trầm
luân vào ṿng sinh tử luân hồi. Muốn thoát khỏi ṿng
đó, phải diệt ngu si, học hiểu thuyết Thập
Nhị Nhân Duyên, đứng đầu là Vô Minh, tức ngu
si. V́ Vô minh nên mới sinh Hành, rồi tiếp tục mười
nhân duyên khác, cho tới Sinh, Lăo, Bệnh, Tử, để rồi
trở lại Vô Minh trong kiếp lai sinh, cứ thế luẩn
quẩn măi.
2. Bồ Tát thường niệm, nên học rộng biết
nhiều, tăng trưởng trí huệ. Không những phá
được Vô Minh cho bản thân, mà c̣n thành tựu biện
tài, nghĩa là nói giỏi, nghĩ thấu tâm ư đối
phương, nên dễ cảm hóa ḷng người. Do đó,
Bồ Tát tự giác rồi có thể giác tha, khiến cho cả
Bồ Tát cùng chúng sinh đều được hưởng
an lạc, đại lạc.
3. Đại lạc không phải là vui theo nghĩa thế
gian, theo ngũ dục chỉ tạm bợ rồi là khổ,
mà là cái vui chắc chắn, không một tai họa nào có thể
đánh đổ, vĩnh viễn, v́ không c̣n bị trầm
luân trong ṿng Luân Hồi nữa.
Đệ Lục
Giác Tri.
1. Nghèo khổ th́ hay bực bội, dễ ngưng kết
các duyên ác, như trộm cắp, ăn gian nói dối. Nói vậy
không có nghĩa là bảo người giầu đều
lương thiện, mà chỉ nhận định một
sự kiện hiển nhiên là sự nghèo túng, đối với
đa số phàm phu, đẩy họ vào ngơ cụt, túng th́
làm càn. C̣n người giầu cũng v́ giầu mà dễ
sinh kiêu mạn, dâm dật, phạm nhiều tội ác khác.
2. Vậy giáo lư này không có mâu thuẫn với đệ
tam giác tri là "An bần thủ đạo", mà chỉ
bổ khuyết nó. An bần thủ đạo là giữ
ḿnh trong sạch, không thèm làm giầu một cách phi pháp.
Nhưng vẫn phải làm việc thế gian để
mưu sinh, không lệ thuộc vào kẻ khác. Vấn đề
y thực được giải quyết ổn thỏa,
th́ mới có thể an tâm học đạo.
3. Đă mưu sinh cho ḿnh rồi, c̣n có thể bố thí cho
những người nghèo hơn ḿnh, nên thương xót họ
v́ biết rằng cái nghèo có thể khiến họ trở
thành ác. Và như vậy, không những là làm lợi cho
người được bố thí, mà c̣n làm lợi cho
chính người đi bố thí, v́ bố thí là hạnh tốt
nhất để phá chấp Ngă. Nhưng muốn được
lợi lộc đó, khi bố thí phải giữ tâm B́nh Đẳng,
không phân biệt người thân kẻ sơ, không nhớ lại
những lỗi lầm cũ của người ta, ngay cả
những kẻ ác hiện nay ta cũng không nên ghét bỏ
chúng.
Đệ Thất
Giác Ngộ.
1. Đă giác tri được những điều trên,
người cư sĩ phải làm hai điều : một
là không nhiễm vào những dục lạc thế gian, ví
như bông sen tuy sinh trưởng trong bùn mà không hôi tanh mùi
bùn.
2. Hai là chí nguyện xuất gia, cũng ví như bông sen
từ đám bùn hôi hám vươn lên không khí trong lành. Có
như vậy th́ việc tu đạo mới hoàn toàn thành
thực và tích cực. Tự cho ḿnh là cư sĩ an bần
thủ đạo, chưa đủ, chưa dấn thân vào
cuộc đời khổ hạnh của các tu sĩ khất
thực, không vợ con, không một xu dính túi, không cả một
mái nhà để tránh mưa nắng, thú dữ, th́ Bi, Trí, Dũng,
nhất là Dũng, chưa thể nào thành tựu được
tới mức tối cao.
3. Tuy vậy, những cư sĩ nào, v́ nghiệp báo,
đă chót vướng vào nhiều hệ lụy gia đ́nh
hoặc quốc gia, hoặc v́ sức yếu, kém thông minh,
không thể phủi tay ra đi được, th́ ít nhất
cũng nên có chí nguyện xuất gia kiếp sau, may ra sẽ
thành tựu được. Chính v́ đó mà chúng ta không những
phải quy y Phật, quy y Pháp, mà c̣n phải quy y Tăng, v́
tăng là những bậc siêu nhân nêu gương mẫu cho
chúng sinh theo.
Đệ
Bát Giác Ngộ.
1. Nhận định rằng việc sanh tử liên
miên từ kiếp này sang kiếp khác, rằng cũng may
trong kiếp này ḿnh được sinh làm người,
được nghe Phật pháp là một hạnh ngộ khó
gặp, nếu không chịu tu th́ biết đâu kiếp sau
sẽ phải giáng xuống địa ngục, làm ngạ
quỷ, làm súc sinh, th́ đến kiếp nào mới lại
được nghe Phật pháp và được cứu
độ ?
2. Không những phải tự cứu ḿnh mà c̣n phải
phát tâm Đại Thừa, cứu cả khắp chúng sinh. Dù phải
lăn lưng vào vô lượng khổ, cũng phải hứng
chịu. Tại sao ? V́ lẽ tương ứng, Nhiều
là Một, và Một là Nhiều, một chúng sinh không thể
riêng an lạc được nếu c̣n chúng sinh khác bị
khổ. Cũng ví như một cốc nước trong
đem bỏ phẩm đen vào đó, th́ c̣n giọt nước
nào trong cốc c̣n giữ được trong sạch không ?
Hoặc nếu một quốc gia bị xâm lăng, th́ có
công dân nào được an vui giầu sang không ? Đó là tâm trạng
của các vị Bồ Tát, như Địa Tạng
Vương Bồ Tát, nguyện không thành Phật nếu c̣n
một chúng sinh chưa được cứu độ.ƠƠ
Kết
Luận.
Ta thấy kinh Bát Đại Nhân Giác khởi đầu bằng
những giáo lư Tiểu Thừa, nhưng rồi kết thúc
bằng tư tưởng Đại Thừa. Từ nhận
xét đó ta có thể suy luận ra hai điều :
- Một là cuốn kinh đó được trước
tác trong thời tư tưởng Đại Thừa mới chớm
nở, chưa phát đạt lắm, nên kinh này chỉ nói
đến lư Vô Thường, Vô Ngă, Dục, Xuất gia, v .
v ., mà chưa bàn đến bản thể Chân Như nằm
dưới các hiện tượng.
- Hai là, theo thiển ư, kinh này muốn dậy chúng sinh rằng
trước khi t́m hiểu các vấn đề siêu h́nh, hăy
huân tập các hạnh căn bản của người Phật
tử đă. Chớ nên có tham vọng một bước
đến ngay bỉ ngạn.
Thử
T́m Hiểu Kinh Kim Cang.
Chúng tôi đă đọc đi đọc lại mấy
chục lần kinh Kim Cang Bát Nhă Ba La Mật, và suy nghĩ từ
mấy năm rồi, mà vẫn không chắc đă hiểu
hết ư nghĩa uyên thâm của nó. Tuy nhiên, cũng nhận
thấy rằng bộ kinh này là bộ kinh chính yếu, chứa
đựng cốt tủy của Phật giáo, nếu không
biết đến nó th́ không khác ǵ người đi t́m của
báu trong đêm tối, làm sao t́m thấy cho được ?
Và đồng thời nẩy ra ư kiến rằng sức một
ḿnh không hiểu nổi, sao không rộng hỏi các bậc cao
minh ? Do đó nên chúng tôi mạo muội viết bài này, với
tham vọng ném ḥn đất ra để thu về ḥn ngọc
quư.
Dưới đây chúng tôi căn cứ vào quyển
"Kinh Kim Cang giảng lục" của thượng tọa
Thích Huệ Hưng dịch một bài diễn giảng của
đại sư Thái Hư bên Trung Quốc, chia làm 32 đoạn
theo sự xếp đặt của thái tử Chiêu Minh nhà
Lương. Nhưng nhận thấy có nhiều đoạn
trùng điệp, nên chúng tôi sẽ không theo thứ tự
đó để rút ra những ư kiến chính của bộ
kinh.
I. Trước hết, trong rất nhiều đoạn,
đức Phật đă nhấn mạnh đến giá trị
vô song của bộ kinh này :
- Đoạn 8 : Tất cả chư Phật và pháp vô
thượng chánh đẳng chánh giác của chư Phật
đều từ kinh này mà ra.
- Cũng đoạn 8, và các đoạn 11, 13, v.v. : Nếu
có người nào thọ tŕ kinh này, dù chỉ thọ rất
ít, được bốn câu kệ nào thôi, rồi giảng
nói cho người khác nghe, th́ phước lại nhiều
hơn người đem bẩy báu khắp cơi tam thiên
đại thế giới mà bố thí.
- Đoạn 12, 15 : Nơi nào, chốn nào mà có kinh này, tất
cả thế gian, Trời, người, A tu la, đều
nên cúng dường. Phải biết chỗ đó chính là
tháp Phật, nên cung kính lễ bái, nhiễu quanh, và đem các
thứ hương hoa mà rải chỗ đó.
- Đoạn 16 : Như thiện nam, tín nữ nào thọ
tŕ, đọc tụng kinh này, nếu bị người
khinh rẻ, đó là tội nghiệp của người ấy
ở đời trước đáng bị đọa vào
ác đạo, nhân đời này bị người khinh rẻ,
nên tội nghiệp đời trước bèn tiêu diệt
và sẽ được đạo vô thượng chánh
đẳng chánh giác.
II. Vậy bộ kinh này dậy bảo điều ǵ mà
có giá trị vô song như vậy? Mở đầu cho Pháp hội,
trưởng lăo Tu Bồ Đề hỏi đức Phật
: "Phải hàng phục và trụ cái tâm như thế nào
?" Và đức Phật trả lời : "Các Bồ
Tát lớn nên hàng phục cái tâm như vầy : Hết thảy
những loại chúng sinh, ta đều làm cho vào Vô Dư Niết
Bàn mà được diệt độ ..."
Theo thiển ư, câu trả lời này nêu ra một vấn
đề thứ nhất : Tại sao muốn hàng phục
tâm (nghĩa là điều khiển nó, không cho nó vọng
động bởi những ư nghĩ tham, sân, si, tức là dứt
bỏ phiền năo) lại phải độ chúng sanh
(trường hợp riêng cho các Bồ Tát), hoặc phải
bố thí (trường hợp chung cho phàm nhân, không đủ
sức độ được người khác nhưng
ít nhất cũng có thể làm một hành động từ
thiện giúp đỡ họ hoặc bằng tiền của,
hoặc bằng săn sóc an ủi họ) Phải chăng
bài học này dựa trên một nhận xét thông thường
là : Muốn quên những phiền năo của chính ḿnh, không ǵ
bằng hoạt động hăng hái để giúp đỡ
người khác. Xin lấy hai thí dụ :
- Thí dụ thứ nhất là kinh nghiệm bản thân của
phần đông dân tị nạn. Riêng chúng tôi c̣n nhớ, sau
mười ngày lênh đênh trên biển cả, bị xếp
như cá hộp trong hầm tầu hôi hám hoặc dăi dầu
mưa nắng trên boong, ăn uống th́ kham khổ với
đồ hộp nguội tanh, khi bước chân lên đảo
Guam như một lũ ma đói, quần áo bẩn thỉu
nhầu nát, th́ được mấy bà già HồngThập
Tự đón tiếp nồng hậu, mời uống nước
ăn bánh với nụ cười vô cùng hiền từ,
khiến chúng tôi cảm động đến rớt
nước mắt. Rồi tới trại Indiantown Gap, tôi
theo học một lớp Anh ngữ cho đỡ buồn,
và một hôm kể lại cảm tưởng đầu
tiên tới đất Mỹ với bà giáo :
"Mấy bà Hồng Thập Tự đă làm cho tôi có một
ư nghĩ về người Mỹ tốt hơn là khi tôi ở
Việt Nam." Bà giáo
ngạc nhiên và hỏi tôi : "Người
Mỹ ở Việt Nam làm sao
?" Tôi trả lời : "Câu chuyện
đó dài lắm, và vốn Anh ngữ nghèo nàn của tôi không
đủ để tôi giải thích được. Nhưng rồi bà đọc các sách báo về sự
sụp đổ miền Nam Việt Nam sẽ hiểu
rơ. Điều tôi chỉ muốn nói với bà
bây giờ, là tôi rất cảm kích các bà Hồng Thập Tự
đă cho phép tôi nh́n người Mỹ với thiện cảm
hơn trước." Bà giáo gật đầu và bảo : "Ông có biết không ? Các bà ấy
toàn là bọn giầu sụ, ăn không
ngồi rồi, phải cầy cục mới được
đi làm không công đấy. Ông không cần phải cảm
ơn họ, chính họ cảm ơn đồng bào ông
đă cho họ cơ hội làm việc từ thiện, khiến
chuỗi ngày dài trống rỗng của họ được
bận rộn với một công việc thích thú mà họ
tin rằng sẽ cho họ lập chút công với Thượng
Đế." à ra thế ! Nhưng mặc dầu bà giáo của
tôi có chút thành kiến đối với bọn nhà giầu
nói chung và với HồngThập Tự nói riêng, tôi vẫn
nghĩ rằng các bà già hội đó đă an ủi tôi trong
lúc tôi đang hoang mang, và đă làm đúng theo lời đức
Phật dậy : là hạnh bố thí, dù
vị kỷ hay vị tha, cũng là bước đầu
đưa tới mục đích hàng phục tâm.
Thí dụ thứ hai là truyện ngắn "Thế rồi
một buổi chiều" của nhà văn Nhất Linh.
Truyện này chứng minh định luật tâm lư : Muốn
quên đau khổ của chính ḿnh, th́ cách tốt nhất là
lăn ḿnh vào hoạt động giúp ích người khác.
III. Cũng theo thiển ư, bài học của kinh Kim Cang
không phải chỉ giản dị tầm thường
như thế. Hoạt động vị tha để quên
cái đau khổ vị kỷ là một chuyện, nhưng
có thể nhờ đó mà ḷng được rửa sạch
tục lụy, bỏ hết tham, sân, si không , lại là một
chuyện khác. Muốn đạt tới mục đích này,
đức Phật đă nói rơ :
- đoạn 3 : Diệt độ vô lượng vô số
vô biên chúng sanh như thế, mà thật không có chúng sanh nào
được diệt độ. Bởi v́ sao ? Nếu
Bồ Tát có tướng ngă, tướng nhân, tướng
chúng sanh, tướng thọ giả, th́ chẳng phải Bồ
Tát.
- đoạn 4 : Đối với pháp, Bồ Tát nên không trụ
vào pháp mà bố thí, nghĩa là bố thí mà không trụ vào các
pháp sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.
- đoạn 32 : Tất cả pháp hữu vi như mộng,
huyễn, bọt, bóng, như sương và như chớp. Nên
quán sát như thế.
Đây mới là bài học chính yếu của kinh Kim Cang,
là bộ kinh diễn giảng pháp vô thượng chánh đẳng
chánh giác, khiến cho tâm vô minh biến thành trí huệ rốt
ráo (Bát Nhă Ba La Mật) thông suốt vũ trụ, cũng ví
như kim cang là chất cứng rắn tột độ,
có thể rạch tất cả các chất khác, dù là đá,
pha lê, vàng bạc. Và như lời Phật dậy, trí Kim
Cang đó ly mọi tướng, không trụ vào pháp nào.
Tướng là ǵ ? Là hiện tượng mà phàm nhân thấy
biết. Gồm tướng của vật chất như
núi sông cây cỏ, tướng của tâm như các ư kiến,
t́nh cảm, tướng của cả tâm và vật như
tướng ngă, tướng nhân, tướng chúng sanh,
tướng thọ giả. Vậy ly tướng là nh́n các
sự vật xuyên qua cái hiện tượng của nó
để thấu tới bản thể. C̣n không trụ vào
pháp nào là làm hạnh vô điều kiện, chỉ biết
là việc nên làm th́ làm, thế thôi. Ví như làm hạnh bố
thí, th́ không được chấp có người bố
thí, có người thọ bố thí, có cái bố thí (tiền
của, pháp, vô úy) Ví như làm hạnh diệt độ
chúng sanh, th́ không được chấp có Bồ Tát năng
độ, có chúng sanh sở độ, và có pháp diệt
độ.
IV. Sau khi nói ra nguyên tắc "ly tướng, tâm vô sở
trụ", muốn chắc chắn rằng ông Tu Bồ Đề
đă hiểu rơ, đức Phật đă thử thách ông
trong nhiều câu hỏi. Chúng ta thử nghiên cứu những
câu trả lời của ông Tu Bồ Đề để t́m hiểu
ư nghĩa bộ kinh. Việc nghiên cứu này không dễ
dàng, v́ tuy ông Tu Bồ Đề trả lời đúng (có khi
được đức Phật bổ khuyết thêm),
nhưng ông không giải thích tại sao lại như thế.
Ông là bậc đại tỳ khưu, hiểu ngay ư nghĩa
lời đức Phật hỏi, nên không cần suy nghĩ
lư luận. C̣n phàm nhân chúng ta, không có cái nh́n trực giác
như thế, nên phải đi từng bước một
có hiểu xong điều trước th́ mới có thể
t́m hiểu điều sau.
Dưới đây là những điểm chính của
cuộc vấn đáp giữa đức Phật và ông Tu Bồ
Đề :
1 Đoạn 5. Vấn : Có thể do nơi thân tướng
mà thấy được Như Lai không ? Đáp : Không. Như
Lai nói thân tướng, tức chẳng phải là thân tướng.
Ông Tu Bồ Đề đă trả lời đúng,
nhưng lối lư luận của ông có chỗ ngoắt
ngoéo. Câu trả lời đúng v́ thân tướng mà Như
Lai nói đó, tức là cái giả tướng của bốn
đại, năm ấm ḥa hợp tạm thành, chứ
không phải là chân tướng. Lối lư luận ngoắt
ngoéo ở chỗ : "Như Lai nói thân tướng, tức
chẳng phải là thân tướng". Rồi sau đây,
trong những đoạn tiếp, chúng ta sẽ luôn luôn gặp
lối lư luận ngoắt ngoéo đó, trái hẳn với
nguyên tắc "bất mâu thuẫn" của Aristote. Phải
chăng lối lư luận của Phật giáo là mâu thuẫn,
điên đảo, nói một đằng, nghĩa một nẻo
? Đâu có như vậy, trái lại phải dùng nó mới diễn
tả nổi chỗ cao siêu của Phật giáo là phải
ly tướng mới thấy được bản thể.
Bởi thế nên đức Phật tán thưởng câu trả
lời của ông Tu Bồ Đề và giải thích thêm : Phàm
cái ǵ có tướng đều là hư dối. Nếu thấy
rơ các tướng chẳng phải tướng, tức là
thấy Như Lai.
Đến đoạn 20 và 26, đức Phật trở lại
câu hỏi tương tự, và nói kệ rằng :
Nếu lấy sắc thấy ta, lấy âm thanh cầu
ta,
Người ấy tu tà đạo, chẳng thấy
được Như Lai.
2) Đoạn 10. Vấn : Ví như có người thân
như núi chúa Tu Di, thân ấy có lớn chăng ?
Đáp : Rất lớn. Bởi v́ sao ? Phật nói chẳng
phải là thân, ấy gọi là thân lớn.
Câu trả lời này, lư luận c̣n ngoắt ngoéo hơn
câu trên. Núi Tu Di biểu hiệu cho cái ǵ cực lớn, vậy
người nào có thân như núi Tu Di tất nhiên là lớn.
Nhưng cái lớn đó có nghĩa lư ǵ đối với
hư không mười phương ? Nó chỉ lớn với
một tỷ lệ xích nào thôi, nghĩa là không có cái lớn
tuyệt đối. Thân cũng vậy, nếu ta không c̣n chấp
tướng nhân, th́ không có thân. Vậy thật ra không có thân
lớn mà chỉ cưỡng gọi là thân lớn.
Không những là không có thân, mà cả tâm cũng vậy. ở
cuối đoạn 18, đức Phật bảo : "Tâm
quá khứ không thể có được, tâm hiện tại
không thể có được, tâm vị lai không thể có
được." Về tâm quá khứ và tâm vị lai,
chúng ta sẵn sàng đồng ư là không thể có được,
v́ một cái đă qua và mộtƠ cái chưa đến.
Nhưng c̣n tâm hiện tại, sao lại cũng không thể
có ? V́ nó không dừng, chợt hiện lên th́ đă là quá khứ
rồi và biến sang tâm vị lai, đâu có cái nào ngừng
nghỉ mà bảo rằng có tâm hiện tại ?
3) Đoạn 13. Vấn : Cơi tam thiên đại thiên thế
giới, có nhiều vi trần không ? Đáp : Rất nhiều
Đức Phật nói thêm : Những vi trần ấy,
Như Lai nói chẳng phải là vi trần, mà gọi là vi trần.
Như Lai nói thế giới, chẳng phải là thế
giới, mà gọi là thế giới.
Nghĩa như sau:Ơ Các thế giới đều do vi
trần họp thành. Nhưng vi trần không có h́nh tướng
chân thật, chỉ cưỡng gọi là vi trần mà thôi.
Vi trần đă không thật có, th́ các thế giới do vi
trần họp thành cũng không thật có, chỉ cưỡng
gọi là thế giới mà thôi. Đoạn này, chúng ta thấy
rằng đức Phật, từ 25 thế kỷ trước,
đă biết rơ có triệu triệu thế giới ngoài quả
địa cầu (cái mà thiên văn học ngày nay gọi là
Galaxies), và đă biết rằng vật chất rốt ráo
là không (Vật lư học ngày nay chứng tỏ rằng các
vi trần, tức là các hạt trong nguyên tử chỉ là
các hạt năng lượng mà thôi).Ơ
4) Đoạn 7. Vấn : Có pháp ǵ nhứt định gọi
là pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác không ? Nó có thể
nói ra được không, có thể chấp thủ
được không ? Phật có được nó không, có
nói nó không ? Đáp : Không có pháp nào như thế, nó không thể
nói ra, chấp thủ. Phật không được nó, không hề
nói nó.
Đoạn kinh này khiến chúng tôi nhớ đến câu mở
đầu cuốn Đạo Đức Kinh của Lăo Tử :
"Đạo khả đạo, phi thường đạo."
Th́ ra đức Phật và Lăo Tử đều có một ư
niệm tương tự về Thực tại tối hậu,
nó vượt ra khỏi ngôn ngữ, Lăo tử phải tạm
gọi nó là Đạo, và đức Phật tạm gọi nó
là pháp Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Sở dĩ nó vượt ra khỏi ngôn ngữ, v́ ngôn
ngữ là dụng cụ truyền thông của những vọng
tâm c̣n phân biệt sắc không, thị phi, không gian thời
gian, làm sao diễn tả được cái vô phân biệt,
không tướng mạo, không bỉ thử, không văng lai, vô
thủy vô chung ? Do đó mà không thể nói nó ra được.
Dù diễn tả nó bằng cách nào cũng là sai, nên không thể
chấp thủ nó.
C̣n tại sao bảo đức Phật không được
nó, Ngài mà chúng ta vẫn tôn xưng là đấng Giác Giả
? V́ tuy nó cao siêu như thế, nhưng nó có sẵn trong mỗi
chúng sinh, và ở trong đức Phật, không từ đâu
đến cả. Chúng sinh v́ mê muội nên chưa thấy
nó, Phật chỉ là bậc giác ngộ đă hiển lộ
được cái có sẵn.
Và cuối cùng, tại sao bảo đức Phật
không hề nói nó, mặc dầu sau khi thành đạo, ngài
đă chu du khắp nơi trong hơn 40 năm để
thuyết pháp? Đó là do ư Phật không muốn chúng sinh nhận
lầm "ngón tay trỏ mặt trăng làm mặt
trăng", chấp cứng những lời dậy bảo
của Ngài, cho đó là Thực Tại rốt ráo. Nhưng
Thực Tại rốt ráo vuột ra khỏi mọi ngôn ngữ
đ̣i diễn tả nó, dù là lời nói của đức
Phật. Thế cho nên chấp lời của đức Phật,
tức là phản lại bài học "ly tướng,tâm
vô sở trụ" của Ngài.
5) Đoạn 9. Vấn : Các vị thánh có thể nghĩ
rằng : Ta được quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na
Hàm, A La Hán không ?
Đáp : Không. V́ sao ? V́ Tu Đà Hoàn nghĩa là Nhập Lưu hoặc
Dự Lưu, nghĩa là dự vào ḍng thánh. Nhưng rốt
ráo th́ không có người nào (ly tướng nhân) cũng
không có pháp nào để dự vào (ly tướng pháp). V́
Tư Đà Hàm là tên của người c̣n phải một lần
qua lại cơi trời, cơi người ; A Na Hàm là tên của
người không c̣n đến thọ sanh ở cơi Dục
; A La Hán là tên hiệu của người vô sanh. Nhưng nếu
các vị ấy nghĩ rằng ḿnh đă đắc quả
tứ thánh, th́ tức là c̣n chấp tướng ngă, tướng
nhân, chưa đạt được trí Bát Nhă, chưa xứng
đáng là bậc Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán.
6) Đoạn 10. Vấn : Bồ Tát có trang nghiêm Phật
độ không ? Đáp : Không. Trang nghiêm Phật độ tức
chẳng phải là trang nghiêm, nên gọi là trang nghiêm.
Nghĩa là như sau : Bồ Tát phần tự tu đă
xong, th́ tự tánh ḿnh là tịnh độ, cần ǵ phải
trang nghiêm nữa ? Nhưng phần tu tự độ tuy
đă xong, mà hạnh giáo hóa chúng sanh c̣n phải làm, v́ chúng
sanh chính là Phật độ của Bồ Tát. Thế cho
nên Bồ Tát không có trang nghiêm Phật độ (tức là
thế giới thanh tịnh của ḿnh) nhưng vẫn giáo
hóa chúng sanh, nên gọi là trang nghiêm.
V.Kinh Kim Cang c̣n nhiều đoạn khác, nêu ra nhiều
câu hỏi hơi khác, nhưng có thể ghép vào một trong 6
điểm nêu trên. Luận điệu chung vẫn là : ly
tướng, tâm vô sở trụ. Trên kia đă định
nghĩa những danh từ ấy rồi, bây giờ chỉ
cần t́m hiểu cho rơ ư nghĩa của giáo lư đó. V́ tuy
các vấn đáp giữa Phật và ông Tu Bồ Đề
đă giải thích nó, nhưng với một lư luận cô
đọng, khó hiểu, phàm nhân chúng ta tâm trí c̣n ch́m đắm
trong vô minh, khó mà lĩnh hội được chu đáo.
Dưới đây chúng tôi xin tạm ghi vài ư kiến,
nhưng chưa dám chắc là đúng.
1/ Giáo lư "ly tướng, tâm vô sở trụ" có
phải là phủ nhận tất cả không? Phủ nhận
chính thân tâm ḿnh, chúng sinh, các bậc thánh, thế giới, phủ
nhận luôn cả sự thành đạo và sự nghiệp
thuyết pháp của đức Phật, và pháp vô thượng
chánh đẳng chánh giác mà Ngài đă diễn giải ?
Nếu theo sát nghĩa từng chữ của kinh Kim
Cang th́ h́nh như thế. Và nếu chúng tôi không lầm, th́
đó chính là lập trường của phái Tiểu thừa.
Lập trường này là : tiêu diệt cái Ngă vị kỷ,
phá cái chấp Ngă nhỏ bé của ḿnh để hợp nhất
với cái Đại Ngă của Vũ Trụ, tiến tới
trạng thái rỗng lặng của thể Chân Như. Và
như vậy tất nhiên sẽ tiêu diệt được
mọi phiền năo, thực hiện được Niết
Bàn ngay trong kiếp này và thoát khỏi ṿng sinh tử luân hồi.
2/ Nhưng ở vài đoạn của kinh Kim Cang, chúng
ta đă thấy đưa ra một lập trường
khác c̣n được phát triển thêm trong các quyển kinh
khác của phái Đại thừa. Là muốn hàng phục tâm,
th́ đồng thời với ly tướng, tâm vô sở
trụ, c̣n phải cứu độ chúng sanh, làm hạnh bố
thí, có như vậy công phu tu hành mới được viên
măn, và mới đạt được trí huệ Kim Cang,
có một nhăn quan hoàn toàn trung thực về vũ trụ và
nhân sinh. Nghĩa là vừa phủ nhận, vừa thừa
nhận sự hiện hữu của vạn pháp. Phủ nhận
v́ biết rằng chư pháp đều do nhân duyên mà sinh diệt,
nhân duyên ḥa hợp th́ điên đảo mộng tưởng,
nói rằng có sanh, nhân duyên ly tán th́ điên đảo mộng
tưởng nói rằng có diệt. Cái có sinh có diệt
đó là tướng. Vật chất là tướng, thân thể
chúng sinh là tướng, và tư tưởng, t́nh cảm cũng
chỉ là tướng, không có tự tánh, chỉ là điên
đảo mộng tưởng, muốn thấu rơ sự
thật th́ phải rời chúng. Đồng thời cũng thừa
nhận, v́ đằng sau các tướng có sinh có diệt
đó là thể Chân Như, bất sinh bất diệt,
nhưng vô h́nh, chỉ có thể hiểu biết qua những
tướng muôn h́nh vạn trạng của nó. Thể và
tướng không rời nhau như bóng với h́nh. Đ̣i ly
tướng thực tế để đạt tới thể
siêu h́nh chỉ là ảo vọng của phái Tiểu thừa,
họ chỉ đạt tới Hư Vô tiêu cực chứ
không phải tới Chân Như tích cực, vô vi nhi vô bất
vi. Câu sau đây của một thiền sư, bằng một
h́nh ảnh ngoạn mục đă diễn giải lập
trường của Đại thừa : "Trước khi học
thiền, tôi thấy núi là núi và sông là sông. Trong khi học
thiền, tôi thấy núi không phải là núi, sông không phải
là sông. Và sau khi giác ngộ, tôi lại thấy núi là núi và sông
là sông."
3/ Dưới ánh sáng của lập trường Đại
thừa, ta thấy rằng :
- Ly tướng ngă, tướng nhân, tướng chúng
sinh, tướng thọ giả, không có nghĩa là không có ta,
không có người khác, không có chúng sinh, không có thọ tưởng
hành thức, mà chỉ có nghĩa rằng : Muốn hàng phục
tâm, ta phải bỏ ḷng vị kỷ, tham sân si mạn, quên
ḿnh đi để nghĩ đến người khác,
như đấng Bồ Tát nguyện không thành Phật vội
trước khi độ được khắp chúng sinh cũng
giác ngộ như ḿnh.
- Tâm vô sở trụ cũng là ly tướng,
được diễn tả bằng lời lẽ khác.
Nghĩa là khi quên cái Ngă nhỏ bé của ḿnh để làm lợi
cho nhân quần xă hội, th́ không được chấp rằng
có ta chịu thiệt tḥi và có người khác được
lợi lộc, có như thế th́ mục đích "hàng
phục tâm" mới được hoàn toàn trọn vẹn.
Kể ra trên đời không thiếu ǵ những bậc từ
thiện sẵn sàng hy sinh cho một lư tưởng, không thiếu
ǵ những bậc từ thiện sẵn sàng bố thí của
cải cho người nghèo khó, hoặc tận tụy
săn sóc cho người bệnh tật, nhưng e rằng
những bậc đó, dù đáng quư trọng đến
đâu, vẫn c̣n chấp có ta hy sinh, có người
được hưởng, có sự hy sinh cao cả, v . v
. . Ví dụ bậc vạn thế sư biểu là Khổng
Phu Tử cổ kim không có ai thánh đức bằng ngài, vậy
mà suốt đời lo lắng phổ biến chánh đạo
để b́nh thiên hạ mà không thành, đến nỗi khi
lâm chung phải than thở : "Đạo ta cùng chăng
?" Lại ví dụ bậc hiệp sĩ như Kinh Kha,
nghĩa khí cao ngất từng mây, vậy mà v́ chịu ân tri
ngộ của thái tử Yên Đan, phải đem ḿnh vào chỗ
chết, ôm mối hận ngàn thu. Các bậc vĩ nhân đó
đâu có tâm trí thảnh thơi, nụ cười
tươi sáng bất diệt của bổn sư Thích Ca
Mâu Ni Phật.
VI. Để có cái tâm trí thảnh thơi như Ngài, đức
Phật đă dậy bảo chúng sinh bài học "ly
tướng, tâm vô sở trụ". Nhưng v́ giáo lư
đó quá cao siêu, đề nghị một nhăn quan khác với
lối nh́n của thế tục, nên không những đức
Phật đă phải hỏi đi hỏi lại ông Tu Bồ
Đề để thử xem ông đă hiểu thấu
chưa, và một mặt Ngài phải công nhận rằng nó
quả thật khó tin, một mặt khác phải quả quyết
rằng Ngài đủ thần thông để thấy đó
là chân lư hoàn toàn :
- Đoạn 6 : ông Tu Bồ Đề nghĩ rằng không biết
chúng sinh nghe được những lời Phật dậy,
rồi có ḷng tin thật chăng ? Đức Phật quở
ông mà bảo rằng : " Chớ nói lời ấy. Như
Lai biết rơ rằng đến đời mạt pháp c̣n
có người nghe kinh này mà khởi được ḷng
tin."
- Đoạn 14. Ông Tu Bồ Đề nhận rằng :
"Nay con được nghe kinh này, tin hiểu thọ tŕ,
không đủ khó lắm. Nếu 500 năm về thời
kỳ sau, có chúng sanh nào được nghe kinh này, tin hiểu
thọ tŕ, th́ người ấy chính là ít có thứ nhất."
Và đức Phật tán thưởng :"Phải đấy
! phải đấy ! Nếu lại có người
được nghe kinh này mà không kinh, không khiếp, không sợ,
phải biết người ấy rất là ít có".
- Cuối đoạn 14, muốn cho chúng sanh vững
ḷng tin lời Ngài, đức Phật đă quả quyết
rằng : "Như Lai là đấng nói lời chơn
chánh, là đấng nói lời chắc thật, là đấng
nói lời đúng đắn, là đấng nói lờiƠ không
dối gạt, là đấng nói lời không sai khác ".
Thêm vào đó, đến đoạn 18, đức Phật
c̣n tự nhận có đủ :
- nhục nhăn, con mắt của phàm phu ;
- thiên nhăn, con mắt của chư thiên, có năng lực
thấy cả xa và gần, thấy suốt vạn tượng,
không bị sắc chất làm ngăn ngại ;
- huệ nhăn, con mắt của hàng nhị thừa Thanh
Văn Duyên Giác, quán thấy tất cả chúng sinh đều
là không, đều là do bốn đại năm ấm giả
hợp ;
- pháp nhăn, con mắt của Bồ Tát, rơ suốt các pháp
đều bởi nhân duyên mà sinh ra, không có tự tánh ;
- và Phật nhăn, con mắt của Phật đă chứng
được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, thấy
biết tất cả chúng sanh, tất cả các pháp thế
gian và xuất thế gian. Đức từ phụ biết rằng
giáo lư "ly tướng, tâm vô sở trụ" của
ngài rất khó được chúng sanh tin theo nên bất
đắc dĩ đă phải nói ra những lời đó,
chứ ngài không hề bao giờ tự xưng ḿnh là một
vị thần thánh khác hẳn loài người, và cũng chẳng
bao giờ làm một phép lạ. Cái nhăn lực của ngài sở
dĩ được lớn rộng như vậy chỉ
là do công phu tu hành mà đắc đạo, giác ngộ, và có
lẽ cũng v́ trong nhiều kiếp trước ngài
đă tu hành nên đến kiếp này mới chóng được
thành công như vậy. Chúng ta c̣n không tin bài học ngài dậy,
há chẳng phụ tấm ḷng từ bi vô lượng của
ngài ?
Để Kết
Thúc.
Trên đây chúng tôi đă theo sự hiểu biết nông
cạn của ḿnh mà nêu ra vấn đề "ly tướng,
tâm vô sở trụ" ghi trong kinh Kim Cang, và cố t́m hiểu
những lời giải thích. Có thể - và chắc chắn
là thế - chúng tôi mới chỉ nh́n thấy một khía cạnh
nông cạn của vấn đề đó, và hiểu nông cạn
những lời giải thích. Có thể kinh Kim Cang đă chứa
đựng một ư nghĩa cao siêu hơn và những lời
giải thích sâu sắc hơn mà chúng tôi đă không nh́n thấy.
Cũng như tới đầu thế kỷ này, chúng ta
tin rằng những định luật của Newton đủ
cắt nghĩa cơ cấu Vũ Trụ, mà không ngờ rằng
một lối giải thích tinh vi hơn, là thuyết
Tương đối của Einstein đă làm đảo lộn
cả sự hiểu biết cổ điển đó.
Chính v́ nghĩ thế nên chúng tôi cầu mong được
quư vị cao minhƠ giải thích cho chúng tôi thấu đáo
hơn kinh Kim Cang, bộ kinh vô song mà theo truyền thuyết,
chỉ nghe qua một lần mà Lục Tổ Huệ
Năng đă giác ngộ ngay. Trái lại, chúng tôi đă đọc
đi đọc lại mấy chục lần mà vẫn thấy
ḿnh c̣n ch́m đắm trong ṿng tục lụy. Nghiệp tiền
kiếp sao mà quá nặng nề ? Biết đến bao giờ
mới được đức Phật điểm nhăn
cho .
KINH DIệU
PHÁP LIÊN HOA.
I. Sự Cău Tạo Cuốn Kinh.
Theo giáo sư Hurvitz, có nhiều bản dịch từ
Phạn ngữ sang Hán văn vào những năm 255, 286, 290,
335, 406 và 601, nhưng chỉ c̣n tồn tại những bản
dịch thứ 3, thứ 5, và thứ 6. Bản dịch thứ
6 chỉ sao chép lại bản dịch thứ 5, có thêm bớt
chút đỉnh không đáng kể. Bản dịch thứ 3
là của Dharmaraksa (223-300), một hậu duệ của
người Iranians đă định cư tại tây bộ
Trung Quốc từ nhiều đời, nên rất am hiểu
chữ Hán, chỉ một ḿnh làm công việc dịch thuật.
Trái lại, bản thứ 5 là của Kumarajiva (Cưu Ma La
Thập ) (350-410), ít am hiểu chữ Hán, nhưng lại
được chỉ huy một thư quán được
nhà vua bảo trợ, có nhiệm vụ dịch kinh Phật
từ Phạn ngữ sang Hán văn. Thư quán gồm nhiều
tăng sĩ vừa có học vấn cao vừa có văn
tài lỗi lạc. Do đó mà bản dịch của
Kumarajiva hay hơn, dễ đọc hơn, và sau đánh bại
hẳn bản dịch của Dharmaraksa, và được
dùng làm bản chánh để nghiên cứu kinh Diệu Pháp
Liên Hoa trong khắp các nước Đông Nam Á.
II. Tư tưởng Phật giáo Đại Thừa trong
kinh.
Bộ kinh này biểu lộ một hướng của
Phật giáo, gọi là Đại Thừa, khác với Tiểu
Thừa về 2 điểm : Một là người theo Đại
Thừa cố gắng độ tất cả chúng sinh, chứ
không riêng ḿnh. Hai là Đại Thừa cố gắng đi tới
Chân Lư tuyệt đối, chứ không hạn hẹp trong sự
nghiên cứu các hiện tượng. Nói vậy không có nghĩa
là 2 điểm đó hoàn toàn thiếu trong tư tưởng
các giáo phái Nguyên Thủy, mà chỉ có nghĩa là Đại Thừa
đă phát triển những mầm mống đó tới mức
cùng cực.
Ngoài ra, giáo sư Hurvitz, căn cứ vào ngôn ngữ học
để nhận xét văn phạm của lời kinh, c̣n
nhận định rằng kinh Pháp-Hoa, cũng như các bộ
kinh khác của Đại Thừa, đă được viết
ra sau một thời kỳ khá lâu, sau khi tư tưởng
Đại Thừa đă được phát triển khá mạnh,
trước bằng những bài kệ dễ nhớ, rồi
sau mới thêm vào phần giải thích bằng tản
văn, dễ diễn tả ư kiến hơn. V́ đó, ông
nhận thấy bộ kinh có 2 tầng lớp, một cái cũ
(phần Kệ) chú trọng đến việc giải
thích chỉ có một đường lối giải thoát,
một thừa (Bồ Tát thừa) chứ không phải ba ;
Thanh Văn thừa và Duyên Giác thừa chỉ là quyền thừa.
Hai là tầng lớp mới (phần tản văn) chú trọng
đến việc giải thích rằng đức Phật
không bị hạn chế bởi không gian và thời gian, mà
Ngài hiện hữu khắp các thế giới và mọi kiếp.
Tuy vậy, hai ư chính đó cũng có khi trộn lẫn với
nhau trong những đoạn thêm thắt về sau, và phần
tản văn (mới hơn) lại được đặt
trước phần kệ (cũ hơn). Bây giờ ta hăy
nghiên cứu kỹ càng hai điểm trên :
1) Đức Phật thật là ǵ ? Những giáo phái Nguyên
Thủy nghĩ rằng đức Bổn Sư Thích Ca Mâu
Ni Phật là một trong nhiều đức Phật đều
giống nhau trong vài điểm chính sau đây : Các Ngài luôn
luôn được thác sinh làm Hoàng tử, đă trải qua
kinh nghiệm rằng cuộc đời là khổ năo, rồi
bỏ nhà đi tu, sống một cuộc đời khổ
hạnh nhưng vẫn không thấy được giải
thoát, rồi hốt nhiên trực giác được đạo
giải thoát, rồi đem đạo đó truyền bá cho
chúng sinh, và cuối cùng tịch diệt mà không hề tái
sinh.
Khi tư tưởng Đại Thừa phát triển, th́
nói rằng đó chỉ là ứng thân của đức Phật
vĩnh cửu (Hai thân khác là Báo thân chỉ hiện h́nh cho
các vị Bồ Tát trông thấy, và Pháp thân th́ bất khả
tư nghị, v́ chính là Chân Như). Trong kinh Pháp-Hoa, đức
Phật cho chúng hội thấy Báo thân hoặc Pháp thân của
Ngài vượt khỏi không gian và thời gian.
2) Có ba thừa hay một thừa ? Trong tư tưởng
của phái Nguyên Thủy, đức Phật là một Giác
Giả, tự giác rồi chuyển pháp luân để độ
chúng sinh, nói Tứ Diệu Đế cho hàng Thanh Văn, và giáo
lư Thập Nhị Nhân Duyên cho hàng Duyên Giác, vậy Thanh
Văn thừa và Duyên Giác thừa đều là những giáo
pháp đưa đến giải thoát. Đại Thừa phản
ứng lại, nói rằng hai thừa trên chỉ là quyền
thừa mà thôi, tuy có đưa đến giải thoát
nhưng không đưa đến Phật quả, Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong kinh Pháp-Hoa, nói rơ chỉ có một
thừa là Bồ Tát thừa, để đi tới thành Phật,
cứu cánh rốt ráo và duy nhất mà mọi Phật tử
không những nên mà c̣n có thể đạt được.
III. Mục lục cuốn kinh. Theo Hải ấn đại
sư (và được ghi trong cuốn kinh của đại
sư Thích Trí Tịnh th́ ngoài một phẩm tổng hiển
là phẩm Tựa, có thể phân chia 27 phẩm c̣n lại của
kinh Pháp-Hoa làm 4 phần : khai, thị, ngộ, nhập :
A. Phần tổng hiển : phẩm
Tựa (1)
B. Phần khai : gồm có 9 phẩm (2-10)
C. Phần thị : gồm 1 phẩm (11)
D. Phần ngộ : gồm 11 phẩm (12-22)
E. Phần nhập : gồm 6 phẩm
(23-28)
I. Phẩm Tựa.
1) Sao gọi phẩm này là phẩm Tựa ? V́ nó giới
thiệu chúng hội tựu tập tại núi Kỳ Sà Quật
để nghe đức Phật thuyết pháp. Chúng hội
gồm có các bực A La Hán, Bồ Tát, các đấng trên cơi
trời, và vua A Xà Thế cùng quyến thuộc. Trước
hết đức Phật nói kinh "Vô lượng nghĩa
giáo Bồ Tát Pháp Phật sở hộ niệm ".Rồi
Ngài ngồi im nhập định, trong khi đó th́ trời
rưới bốn thứ hoa, và đất lay sáu điệu.
Tự lông trắng giữa chân mày của Ngài phóng hào quang
chiếu thấu một vạn tám ngh́n thế giới, dụ
cho 18 giới : 6 trần, 6 căn và 6 thức của chúng
sinh, dưới thời chiếu đến địa ngục
A Tỳ, trên suốt thấu trời Sắc cứu cánh. Và
khiến cho chúng sanh ở cơi này đều thấy cả
sáu loài chúng sanh ở các cơi kia.
Trên 40 năm thuyết pháp, đức Phật chưa từng
hiển phát cảnh giới này là v́ căn cơ của
chúng sanh chưa thuần thục, c̣n phải chờ đợi
thời chín mùi. Đến nay đă đến lúc nên đức
Phật mới hiển phát. Ngài Di Lặc Bồ Tát chưa
hiểu, phải hỏi Ngài Văn Thù Bồ Tát tại sao
hôm nay đức Phật lại làm phép lạ chưa từng
thấy. Ngài Văn Thù Bồ Tát bèn dẫn việc xưa của
Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật, cũng đă từng
phóng hào quang như thế, khiến cho trời mưa hoa và
cơi đất sáu điệu vang động. Và khi đó Diệu
Quang Bồ Tát nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa để giải
thích, và Bồ Tát Cầu Danh không hiểu. Diệu Quang Bồ
Tát chính là tiền thân của tôi (Văn Thù) ngày nay, và Cầu
Danh Bồ Tát chính là tiền thân của ngài (Di Lặc) ngày
nay. Cho nên tôi biết rằng ngày hôm nay đức Phật
phóng hào quang, tức là Ngài sắp nói pháp Đại Thừa.
2) Ngay ở phẩm đầu tiên này, chúng ta đă thấy
kinh Pháp-Hoa tràn ngập không khí mầu nhiệm, bất khả
tư nghị, chứ không c̣n ở b́nh diện lịch sử
nữa như khi đức Phật nói Tứ Diệu Đế,
hoặc cả khi Ngài giảng kinh Kim Cang, tuy đă cao siêu
nhưng c̣n ở mức mà tâm thức chúng sinh c̣n hiểu
được, nên không cần phóng hào quang. Trái lại,
trong kinh Pháp-Hoa này, nói đến chúng hội đông tới
mấy chục vạn, không những chỉ có người
mà c̣n cả quỷ thần mà mắt phàm không nh́n thấy,
nói đến hào quang chiếu sáng đến địa ngục
và các tầng trời mà mắt phàm không thể thấy
được nếu không được thần lực
của Phật hộ tŕ.
Vấn đề đặt ra là : phải chăng những
phép lạ đó chỉ là những kư hiệu để diễn
tả những ư kiến trừu tượng, hay là phép lạ
có thực ? Phàm phu chúng ta có thể nghiêng về lối hiểu
thứ nhất, chỉ tin vào cái ǵ giác quan thô thiển của
chúng ta cảm thọ được. Đó cũng là quan điểm
của khoa học duy lư và duy nghiệm, nhưng may thay khoa học
ngày nay đă và đang tiến dần đến sự
thoáng thấy cơ cấu kỳ diệu của Vũ Trụ
bằng những cực vi vừa có trọng lượng vừa
là năng lượng, như quarks, neutrons và vũ trụ
tuyến, hoạt động kỳ bí như những ma
quái ; kỳ bí v́ khoa học chưa hiểu được.
Những phép lạ nói trong các kinh Đại Thừa cũng vậy,
phàm phu không tin nổi v́ mắt phàm không nh́n thấy các quỷ
thần, địa ngục và các tầng trời, v́ tai phàm
không nghe thấy tiếng của Vũ Trụ vang động.
Do đó mà hàng Tiểu Thừa không có ghi những phép lạ
đó trong Tam tạng của họ. Phải nhờ thần
lực của Phật và pháp lực các Bồ Tát hộ tŕ,
thời tín nam tín nữ mới nhận thấy những cảnh
mầu nhiệm đó. Tin là đức tính cần thiết
để học đạo, tất khó được,
nhưng một khi được th́ cửa trời sẽ
rộng mở thênh thang.
II. Phẩm Phương Tiện.
1) Phương tiện là ǵ ? Là những diệu xảo
để đạt gián tiếp một mục đích khó
khăn không thể đạt trực tiếp được.
Ví dụ khi chống quân xâm lăng quá mạnh không thể
dàn trận để đối địch, mà phải dùng
chiến lược vườn không nhà trống, cắt
đứt đường tiếp lương của
địch, đột kích các đồn địch nhỏ,
và tất cả những phương tiện đó đều
nhằm mục đích tối hậu là xua đuổi quân
xâm lăng ra khỏi bờ cơi.
2) Trở về phương tiện của đạo
Phật là ǵ ? Là v́ nếu đức Phật nói thẳng
ngay nhất thừa khó hiểu quá, cao xa quá, th́ e rằng phần
đông chúng sanh kinh nghi không dám tin. Quả thật, khi thấy
đức Phật nói vậy, có 5.000 người vừa Tỳ
kheo, Tỳ kheo ni, Cận sự nam, Cận sự nữ, liền
đứng dậy lễ Phật mà lui, không ở lại,
đức Phật yên lặng không ngăn cản.
Bấy giờ đức Phật bảo ngài Xá Lợi
Phất : "Trong chúng ta đây không c̣n cành lá, rặt có hột
chắc. Những gă tăng thượng mạn như vậy
lui về cũng là tốt. Bây giờ ông khéo nghe, ta sẽ
v́ ông mà nói. Pháp lớn này không phải là suy lường phân
biệt mà có thể hiểu, nên không thể nói thẳng ngay
được. Như thế ba thừa chỉ là quyền
thừa, gốc từ nhất thừa mà ra. Chư Phật
dùng sức phương tiện nói một thừa mà phân biệt
thành ba. Mặc dầu là phương tiện
dẫn dụ, nhưng kỳ thật là đưa đến
con đường chân thật, con
đường đi thẳng đến quả vô thượng.
Sở dĩ Phật ra đời v́ để
nói Phật-tri-kiến, nay chính đă đến giờ.
Nay ta bỏ phương tiện trước,
chỉ nói nhất thừa vô thượng."
III. Phẩm Thí Dụ.
1) Nhơn v́ trong phẩm phương tiện trước,
đức Thế Tôn thẳng một mực thổ lộ
chơn thừa, ngài Xá Lợi Phất, bậc trí huệ
thượng thủ trong chúng hội Thanh Văn, liền
lănh hội trước nhất, nghĩ nhớ lại từ
trước mê lầm không tự nhận, nên tự trách tự
hờn, đến nay mới tin chắc rằng sẽ
đặng làm Phật. Do đó ngài Xá Lợi Phất liền
được đức Thế Tôn thọ kư. ư nghĩa thọ
kư là thế nào ? Là dù vậy, song c̣n phải trải qua nhiều
kiếp số tu hành mới đặng thành Phật, phải
tu tập dứt trừ đến khi vô minh hết hẳn.
2) Dầu tự ḿnh đă quyết định tin chắc
nhưng c̣n lo trong chúng hội chỗ tín nhận chưa hoàn
toàn thấu đáo, nên ngài Xá Lợi Phất lại ân cần
thỉnh đức Thế Tôn v́ tứ chúng mà nói rơ : sở
nhơn v́ saoƠ thuở trước Phật nói quyền , nay
lại bỏ quyền nói thật, để dứt hẳn
ḷng nghi của toàn chúng hội.
3) Đức Thế Tôn bèn nói thí dụ nhà lửa : Xưa
có ông Trưởng giả tuổi đă già suy, của giầu
vô lượng. Nhà ông rộng lớn mà chỉ có một cửa
để ra vào, bỗng phát hỏa. Các con ông ngu dại, ở
chỗ nguy hiểm mà vẫn mê say vui đùa không hay không biết,
dụ cho sự mê lầm tham chấp của chúng sanh.
Trưởng giả muốn cứu con, trước nói thật
trạng hiểm nguy mà các con không hiểu, không nghe theo, sau
cùng phải quyền nói hứa cho ba thứ xe để
ngoài cửa. Các con v́ ham xe mà ra khỏi nhà lửa. Trước
hứa ba xe, mà lúc sau, khi các con đă ra khỏi chốn khổ
nguy, đồng ban cho một thứ xe trân báu cao rộng,
đẹp nhất : chỉ rơ ư nghĩa ngày nay đức Phật
lập thật giáo, phế quyền thừa.
IV. Phẩm Tín Giải.
1) Lúc bấy giờ các ngài Huệ Mạng Tu Bồ Đề,
Ca Chiên Diên, Ca Diếp và Mục Kiền Liên, bốn vị
đại đệ tử, nhơn thấy ngài Xá Lợi
Phất đă lănh hội tỏ ngộ và được thọ
kư thành Phật, lại nhơn nghe lời thí dụ vừa
rồi của đức Thế Tôn cho nên sanh ḷng vui mừng
vô lượng, hiểu rơ quả vị của ḿnh mà chứng
trước kia là quyền, tin chắc Phật thừa
được nghe hôm nay là chơn.
2) Rồi bốn ngài ở trước đức Phật
tự nói dụ Cùng Tử : Có người tuổi thơ
bé, bỏ cha trốn đi ở lâu nơi nước khác.
Lúc đă lớn lại thêm nghèo cùng khốn khổ, giong duổi
bốn phương để cầu đồ mặc vật
ăn, dạo đi lần lần t́nh cờ về bổn
quốc. Được gặp cha không nhận mà trở lại
sợ, chỉ hốt phân để được tiền
công nhỏ mọn từng ngày. Người cha vẫn
thương con, muốn nhận nó ngay nhưng biết nó
chí ư hạ liệt, nên đến khi thấy nó đă vững
tin, mới trao tất cả sự nghiệp cho nó.
Bốn ngài mượn việc của cùng tử để
dụ cảnh huống của ḿnh, mà cũng là của mọi
người, thơ ngây xa Phật lưu lạc trong luân hồi,
nổi trôi trong sanh tử đến ngày gặp đặng
Phật lại không biết là chính cha lành mà trở lại
sợ, nhờ Phật phương tiện cho ở quả
vị tiểu thừa, tự an phận nơi đó, không
tin ḿnh chính là con của Phật,
V. Phẩm Dược Thảo Dụ.
1) Đă được nghe Ma Ha Ca Diếp nói lên ḷng tin của
các đại đệ tử, rằng ba thừa chỉ
là nhất thừa, đức Phật c̣n e ngại họ
nghĩ rằng Ngài tác ư tùy cơ nói ba thừa sai khác. Bởi
vậy Ngài nói thêm dụ Dược Thảo này : Mây đầy
trời che trùm muôn vật, đồng một loạt
mưa xuống chỉ rưới một thứ nước,
cũng không chỗ ít nhiều. Mặc dầu một trận
mưa không mẩy mún riêng tư nhưng cỏ cây tùy phận
được đượm nhuần mỗi mỗi riêng
khác. Cỏ dụ cho hàng Thanh Văn và Duyên Giác, c̣n cây dụ
cho các vị Bồ Tát. Cỏ cây hấp thụ nước
mưa không đồng, nhưng không đồng là tự
nơi cây cỏ giống loại sai khác chớ nước
mưa chỉ một vị thôi.
2) Đức Như Lai thuyết pháp cũng thế, ḷng từ
rộng lớn bao bọc cả quần sanh, pháp của
Như Lai vốn không sai khác, mà có sai khác là tự ở
nơi cơ của chúng sanh không đồng. Do đây mà thấy
rơ ư thú "chỉ có một thừa, không hai cũng không
ba". Làm cho người nghe dụ Dược Thảo, liền
trừ chấp kiến, có thể đi sâu vào pháp huệ
b́nh đẳng của Như Lai, chính là khai hiển Phật-tri-kiến
vậy.
VI. Phẩm Thọ Kư.
Trước tiên là ngài Xá Lợi Phất được
thọ kư sẽ thành Phật. Rồi sau đến bốn
vị Ma Ha Ca Diếp, Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề
và Ca Chiên Diên, cũng đă hiểu ba thừa vốn không
thiệt, nên đức Thế Tôn tuần tự thọ kư
cho bốn ngài.
VII. Phẩm Hóa Thành Dụ.
1) Trong pháp hội c̣n có một số Thanh Văn căn
chậm lụt, từ lâu cho rằng quả vị đại
giác của Phật ḿnh không thể chứng. Đến nay thói
quen kém hèn vẫn chưa dứt, cho rằng : Năm ngài là bậc
đại đệ tử của Phật nên đáng đặng
thọ kư, c̣n chúng ta chắc khó đặng dự phần.
2) Đức Phật bèn nhắc việc thủa xưa, có
Đại Thông Trí Thắng Phật, khi chưa xuất gia có 16
người con trai. Đến lúc ngài thành đạo, 16 vị
vương tử thỉnh cầu ngài chuyển pháp luân, và
tất cả đều chứng đặng đạo vô
thượng chánh đẳng chánh giác. Vị thứ 16 chính
là Thích Ca Mâu Ni Phật.
3) Muốn hiểu rơ nghĩa tam thừa là quyền, tạm
lập ra chỉ để trừ ḷng chán nản sợ sệt
của chúng mà thôi, nên đức Phật nói dụ "Hóa
Thành". Đức Phật là vị đạo sư tài trí dẫn
đường, đưa chúng vượt qua con đường
hiểm trở dài xa vô minh. Nửa đường chúng sợ,
muốn trở lại. Đạo sư phải dùng thần lực
hóa ra thành tŕ để cho chúng có chỗ tạm nghỉ khỏi
phải trở lui. Thành tŕ do thần lực biến hóa ra
chớ nào phải thật. Chúng hết mệt hết sợ,
th́ đạo sư lại diệt hóa-thành, lại
đưa chúng tiến lên con đường thẳng đến
bảo sở.
4) Tam thừa Niết Bàn nào khác hóa-thành, tạm thời
trụ nơi đó rồi lại phải rời ra, v́ nào
phải là cơ sở chơn thật mà ở măi được,
thủy chung rồi cũng chỉ một thừa là
chơn thật, là con đường duy nhất đưa
đến quả vô thượng chánh đẳng chánh giác.
VIII. Phẩm Ngũ Bá Đệ Tử Thọ Kư.
1) Năm trăm vị đệ tử trước
kia nghe năm vị thượng thủ được thọ
kư, vừa rồi lại được nghe dụ Hóa-Thành,
mới biết rằng đức Phật dùng vô lượng
thần thông phương tiện dẫn dắt chúng sanh, tự
tin chắc ḿnh quyết định thành Phật. Phật huệ
đă hiển, tri-kiến đă khai, nên đức Thế
Tôn tuần tự thọ kư cho cả.
2) Được thọ kư xong, 500 vị nói dụ sau này :
Có người đến nhà bạn thân say rượu mà nằm,
lúc đó người bạn thân có việc gấp phải
đi, lấy châu báu cột trong áo của gă say, cho đó rồi
đi. Gă say mèm không hay biết, sau khi dậy bèn đi nước
khác mưu sinh rất là khổ nhọc, nếu có được
chút ít bèn cho là đủ. Lúc sau người bạn thân gập
gỡ thấy gă bèn bảo rằng : "Lạ thay ! Sao lại
ăn mặc tồi tệ như thế ? Ta lúc trước
đă đem châu báu cột vào trong áo anh, nay vẫn c̣n đó
mà anh không biết, lại đi nhọc nhằn cầu
mưu sinh thật là khờ lắm. Nay anh nên đem ngọc
báu đó đổi chác lấy đồ cần dùng, sẽ
không thiếu thốn." Đức Phật cũng lại
như vậy, lúc làm Bồ Tát giáo hóa chúng con khiến phát
ḷng cầu nhứt-thiết-trí, mà chúng con liền bỏ
quên không biết. Đă được đạo A La Hán tự
nói là diệt độ. Ngày nay đức Thế Tôn giác ngộ
chúng con mà bảo rằng chúng con chưa thiệt được
diệt độ. Chúng con nay mới biết ḿnh thiệt
là Bồ Tát được thọ kư sẽ thành đạo
vô thượng chánh đẳng chánh giác.
IX. Phẩm Thọ Học Vô Học Nhân Kư.
1) Với 500 vị A La Hán đă được thọ
kư, như thế là đă an ủi ḷng đại chúng rồi.
Nhưng c̣n hàng tân học Thanh Văn, như các ngài A Nan, La Hầu
La, v.v. đức Phật cũng đều thọ kư cho cả
để toại ḷng trông mong của chúng, mà cũng là
để chỉ rơ rằng Phật pháp không hề thừa
sót.
2) Thọ học hay hữu học là bậc phải học
rồi mới hiểu, tức là hàng Thanh Văn, c̣n vô học
là bậc không cần học mà đă hiểu, tức là hàng
A La Hán.
X. Phẩm Pháp Sư.
1) Phẩm này nói về sức mầu nhiệm vô lượng
của kinh Pháp-Hoa, và về công giáo hóa của pháp sư. Nếu
có người nào nghe pháp, không một ai chẳng thành Phật,
nhẫn đến chỉ một niệm vui theo thời cũng
nên Phật quả. Nhưng tuy rằng tất cả chúng
sanh đều có chánh nhân Phật tánh, nếu không có diệu
pháp để làm thắng duyên giúp cho phát lộ, nghĩa là
nếu không có pháp sư chỉ bảo cho thời khó mong
chóng thành chánh quả.
2) Pháp sư có 5 hạng :
- Tùy hỉ pháp
- Đọc tụng pháp sư
- Thọ tŕ pháp sư
- Thơ tả pháp sư
- Giảng thuyết pháp sư.
3) Kinh Pháp-Hoa này là toàn thân của đức Phật,
gánh vác kinh này chính là gánh vác đức Như Lai, v́ thế
nên phải kính trọng pháp sư là người hoằng
truyền khiến cho giống Phật không dứt mất.
XI. Phẩm hiện bửu pháp.
1) Lúc bấy giờ trước Phật có tháp bằng
bẩy báu, từ dưới đất nổi lên trụ ở
giữa hư không, và trong tháp báu vang tiếng lớn ra khen
rằngƠ : "Hay thay ! Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn ! Có
thể dùng huệ lớn b́nh đẳng v́ đại chúng
nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa ". Và đức Phật giải
thích : "Trong tháp báu này có toàn thân Như Lai, thời quá khứ
có Phật hiệu là Đa Bảo, đức Phật đó
dùng sức nguyện thần thông nếu nơi nào có nói kinh
Pháp-Hoa, thời tháp báu sẽ nổi ra."
2 ) Bây giờ ngài Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát bạch
Phật rằng : "Chúng con nguyện muốn thấy thân
của đức Phật đó." Phật bèn phóng một
lằng sáng nơi lông trắng giữa chân mày, liền thấy
hằng hà sa số cơi nước ở khắp mười
phương, đều thanh tịnh, cây báu trang nghiêm, có các
đức Phật đều ngồi toà sư-tử, sai vị
thị giả qua thăm viếng đức Thích Ca Mâu Ni Phật,
yêu cầu Ngài mở tháp báu.
3) Khi ấy đức Thích Ca Mâu Ni Phật dùng ngón tay hữu
mở cửa tháp vang ra tiếng lớn. Tức thời tất
cả chúng trong hội đều thấy đức Đa Bửu
Như Lai ở trong tháp báu ngồi ṭa sư-tử, toàn thân
không ră như vào cảnh thiền định, chia nửa
toà cho Thích Ca Mâu Ni Phật.
4) Bấy giờ hàng đại chúng thấy hai đức
Như Lai xếp bằng trên ṭa sư-tử trong tháp báu thời
đều nghĩ rằng : "Đức Phật ngồi
trên cao xa, cúi mong Ngài dùng sức thần thông làm cho bọn
chúng con đều được ở trên hư không."
Tức thời đức Thích Ca Mâu Ni Phật dùng sức
thần thông tiếp hàng đại chúng đều ở
hư không, rồi bảo rằng : "Ai có thể ở
trong cơi Ta Bà này rộng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nay chính phải
lúc. Như Lai không bao lâu sẽ vào Niết Bàn. Phật muốn
đem kinh Pháp Hoa này phó chúc cho con người."
XII. Phẩm Đề Bà Đạt Đa.
1) Do v́ trước kia các hàng Thanh Văn ôm ḷng sợ sệt
Phật đạo dài xa. Đến nay dầu đă nhờ
đức Phật thọ kư, nhưng c̣n phải trải
qua nhiều kiếp mới đặng Phật quả, sợ
rằng trong thời gian đó túc tập phát khởi, nửa
chừng ngưng trệ không khứng siêng cầu.
2) Đức Thế Tôn bèn tự dẫn việc đời
trước của ḿnh, dầu làm vua mà cũng phủ bỏ
để cầu Tiên Nhơn. Tiên Nhơn này là tiền thân của
Đề Bà Đạt Đa, truyền cho vua Diệu Pháp nên vua thành quả
vị Bồ Đề. Đức Phật lănh thọ Pháp Hoa, Đề
Bà Đạt Đa tuyên truyền Pháp Hoa, một hiện thành Phật,
một sẽ thành Phật, để hiển lộ rơ thành
Phật chung quy không ngoài Diệu Pháp Liên Hoa.
3) Lại sợ rằng hàng đệ tử hạ liệt
v́ thấy khó mà không gắng tấn, cho nên kế đó hiển
bầy việc giáo hóa của ngài Văn Thù Sư Lợi ở
long cung, chưa bao lâu mà đă độ được vô
lượng chúng sanh thành Bồ Tát. Lại thêm Long Nữ mới
tám tuổi mà trong khoảng hiến bửu châu, bỗng
nhiên biến thành nam tử, qua thế giới Vô Cấu
thành bực Chánh Giác, diễn nói phép mầu. Tất cả
những kết quả vĩ đại mau chóng như thế
đều nhờ sức của Diệu Pháp Liên Hoa.
XIII. Phẩm Tŕ.
1) Chúng hội thời đức Phật c̣n tại thế,
vậy là đă đủ duyên và được thọ tŕ.
C̣n chúng sanh sau khi đức Phật diệt độ, tội
nặng phước mỏng, chướng sâu, huệ kém, nếu
không có người phụng tŕ th́ giống Phật phải
dứt mất, đức Thế Tôn thầm lo như vậy.
2) Các vị Bồ Tát, 500 vị A La Hán, và 8,000 bực hữu
học và vô học đă được thọ kư, đều
hiểu mối thầm lo của đức Phật và nguyện
phụng tŕ kinh này ở đời vị lai, rộng bầy
diễn nói chẳng quản khó nhọc, chẳng tiếc
thân mạng.
3) Nhưng đức Phật vẫn yên lặng v́ Ngài
e ngại chúng Thanh Văn pháp lực không đủ. Các vị
Đại Bồ Tát hiểu ư, bèn lớn tiếng phát lời
thệ rằng : " Thế Tôn ! Sau khi Như Lai diệt
độ, chúng con đi giáp ṿng qua lại khắp mười
phương thế giới, khiến chúng sanh biên chép kinh
này, thọ tŕ, đọc tụng, giải nói nghĩa
đó, đúng như pháp mà tu hành, như thế đều
là sức oai thần của Phật " (v́ các ngài không dám
tự phụ sức ḿnh, nên nói hộ tŕ được là
nhờ thần lực của Như Lai)Ơ
XIV. Phẩm An Lạc Hạnh.
1) Lúc bấy giờ ngài Văn Thù Sư Lợi đại
bồ tát bạch Phật rằng : "Ơ Các vị đại
Bồ Tát ở đời ác sau, thế nào mà có thể nói
kinh này ?"
2) Phật bảo : "Nếu vị Bồ Tát ở
đời ác sau muốn nói kinh này, phải an trụ trong bốn
pháp :
a) Hành xứ và thân cận xứ : Chỗ sở hành và
chỗ thân cận của Bồ Tát phải thường
tương ứng với tánh giới, bề trong thời
an trụ nơi đệ nhất nghĩa thật tướng
(nghĩa là hư không, chẳng sanh, chẳng khởi, không
danh, không tướng, chỉ do nhân duyên mà có). Bề ngoài thời
xa những mầm nạn ác hạnh, tránh tất cả những
điều cơ hiểm (nghĩa là xa rời quốc
vương, các vị quyền quư, phụ nữ, đồ
tể, kẻ săn bắn và chài lưới, v.v.)
b) Ngừa lỗi nơi khẩu nghiệp, làm cho mọi
người đều hoan hỉ, thời khỏi chướng
nạn.
c) Chớ đua dối, ghét ganh, tức là tâm xa rời
tất cả phiền năo cấu trược, kính trọng
người trên, không khinh kẻ dưới.
d) Sanh ḷng từ bi thệ độ tất cả,
như thế thời không xa bỏ chúng sanh, không sanh niệm
mỏi mệt nhàm chán.
XV. Phẩm Tùng Địa Dũng Xuất.
1) Lúc bấy giờ các vị đại Bồ Tát ở
cơi nước phương khác đông hơn số cát sông
Hằng, xin nguyện ở lại cơi Ta Bà này để hộ
tŕ kinh. Nhưng đức Phật khước từ lời
nguyền hộ tŕ kinh của các Bồ Tát ở tha
phương, chính để hiển rơ ư từ ngoài đến
không quư bằng tự nhà có sẵn. ứng theo lời đức
Phật, đại địa rúng nứt, vô lượng Bồ
Tát từ dưới đất vọt lên, đến tháp
báu lễ Phật.
2) Bấy giờ ngài Di Lặc Bồ tát cùng các Bồ
Tát khác đều nghĩ rằng : "Chúng ta từ
xưa, chẳng thấy, chẳng nghe các đại Bồ
Tát như thế từ dưới đất vọt
lên.", nên hỏi rằng :" Các vị oai đức lớn,
ai giáo hóa cho thành tựu thọ tŕƠ kinh ǵ ? tu tập Phật
đạo nào ?"
Đức Phật bèn bảo : "Các hàng đại Bồ
Tát vô lường, vô số a-tăng-kỳ, từ dưới
đất vọt ra mà các ông từ xưa chưa từng
thấy đó, chính ta ở cơi Ta Bà giáo hóa chỉ dẫn các
Bồ Tát đó."
3) Nhưng ngài Di Lặc bồ Tát cùng vô số chúng Bồ
Tát, ḷng sanh nghi hoặc mà nghĩ rằng : "Thế nào
đức Thế Tôn ở trong thời gian rất ngắn
mà có thể giáo hóa vô lượng vô biên a-tăng-kỳ các
đại Bồ Tát đó ?" V́ vậy nên các ngài nói dụ
"cha trẻ con già" thuật ḷng nghi ngờ của
ḿnh, để cầu đức Như Lai giải quyết.
Phẩm kế đức Như Lai tự nói thọ-lượng
để quyết nghi vậy.
XVI. Phẩm Như Lai Thọ Lượng.
1) Thấy các đệ tử c̣n nghi như thế,
đức Phật bèn trả lời : "Từ ta thành Phật
nhẫn lại, thật là lâu xa, thọ mạng vô lượng
a-tăng-kỳ kiếp, thường c̣n chẳng mất. Như
nay chẳng phải thiệt diệt độ, mà nói sẽ
diệt độ, đó là ta dùng phương tiện để
giáo hóa chúng sanh. V́ sao ? V́ nếu thấy đức Như
Lai thường c̣n chẳng mất, th́ những người
đức mỏng sẽ sanh ḷng buông lung nhàm trễ. Trái lại,
ta nói các đức Phật ra đời, khó có thể gặp
gỡ, và các chúng sanh nghe lời như thế, ắt sẽ
sanh ư tưởng khó gặp gỡ, ôm ḷng luyến mộ
khát ngưỡng nơi Phật, bèn trồng cội lành. Cho
nên đức Như Lai dầu chẳng diệt mà nói diệt
độ. "
2) Ví như vị lương y, trí huệ sáng suốt,
khéo luyện phương thuốc trị các bệnh. Ông
đi xa, và các con ở nhà uống lầm thuốc độc,
phát muộn loạn. Bấy giờ người cha từ
nước xa trở về nhà, thấy các con khổ năo
như thế, bèn chế thuốc đưa cho các con uống.
Trong các con, những người chẳng thất tâm, uống
và được lành mạnh. C̣n những người thất
tâm không chịu uống. V́ sao ? V́ hơi độc đă
thâm nhập làm mất bổn tâm, nơi thuốc thơm
đẹp mà cho là không ngon. Người cha bèn dùng
phương tiện, đi nước khác sai sứ về
nói : "Cha các ngươi đă chết". Bấy giờ
các con nghe tin cha chết, tự nghĩ ḿnh nay côi cút, không có
chỗ cậy nhờ, ḷng thương bi cảm, tâm bèn tỉnh
ngộ, biết thuốc này sắc hương vị ngon,
liền lấy uống và lành bệnh. Người cha
được tin các con đều đă lành mạnh, liền
trở về cho các con đều thấy. Đức Phật
cũng như thế, thọ mạng vô số kiếp, thiệt
c̣n mà nói diệt độ, không có lỗi hư dối.
XVII. Phẩm Phân Biệt Công Đức.
Bởi Pháp thân vẫn thường trú ở thế
gian, cảnh tịnh độ không rời cơi trược,
nên đức Thế Tôn khuyên chúng hội : Nếu có người
quán được như thế, phải biết đó là
tướng thâm tín giải. Thâm tín giải là tin và hiểu
pháp thân thường trú duy tâm chơn cảnh. Thân và cảnh
đây rất sâu rất diệu, tin hiểu được
thời công đức vô lượng vô biên. Cho nên đức
Như Lai phân biệt công đức tŕ kinh bất khả
tư nghị siêu việt tất cả hữu vi công đức
như bố thí, cúng dường Phật.
XVIII. Phẩm Tùy Hỉ Công Đức.
Trong phẩm trước, đức Phật đă bảo
tŕ kinh là một công đức lợi ích bất khả
tư nghị. Đến phẩm này, Ngài lại c̣n bảo Một
niệm tùy hỉ (nghĩa là chỉ nghe kinh mà đă vui theo,
vui mừng hiểu rơ và tuân theo) c̣n là một công đức
lớn hơn gấp nhiều lần.
XIX. Phẩm Pháp Sư Công Đức.
Trước đă rộng khen công đức tŕ kinh,
nay trong phẩm này nói vị Pháp sư tŕ kinh Diệu Pháp
Liên Hoa sẽ đặng sáu căn thanh tịnh, là :
1) Nhăn căn :Ơ thấy khắp cơi tam thiên đại
thiên, trong ngoài có những núi, rừng, sông, biển, dưới
đến địa ngục A-tỳ, trên đến cơi trời
Hữu-Đảnh, cũng thấy tất cả chúng sanh trong
đó và nghiệp nhân duyên quả báo, chỗ sanh ra thẩy
đều thấy biết.
2) Nhĩ căn : nghe khắp cơi tam thiên đại
thiên, dưới đến địa ngục Vô-gián, trên
đến cơi trời Hữu-Đảnh, trong ngoài các thứ lời
lẽ giọng tiếng : tiếng các loài voi, ngựa, rồng,
dạ xoa, v.v. tiếng người, tiếng thánh nhân, tiếng
khổ, tiếng vui, tiếng Thanh Văn, tiếng Bích Chi Phật,
tiếng Bồ Tát, tiếng Phật.
3) Tỉ căn : ngửi thấy khắp cơi tam thiên
đại thiên, trên dưới trong ngoài, các mùi bông sen, mùi
chiên đàn, mùi chúng sanh : voi, ngưạ, trai gái, mùi cây cỏ,
hoặc gần hoặc xa.
4) Thiệt căn : những món hoặc tốt, hoặc
xấu, hoặc ngon, hoặc dở, và các vật đắng
chát, ở trên lưỡi người thọ tŕ kinh đều
biến thành vị ngon như vị cam-lộ trên trời,
không món nào là chẳng ngon.
5) Thân căn : người tŕ kinh được thân
thanh tịnh như lưu ly. V́ thân đó trong sạch nên
chúng sanh trong cơi tam thiên đại thiên, lúc sanh lúc chết,
trên dưới, tốt xấu, sanh chỗ lành, chỗ dữ,
v . v . đều hiện rơ trong đó.
6) ư căn : được thanh tịnh rồi th́ nghe
kinh liền hiểu suốt thấu vô lượng nghĩa,
và nếu nói kinh sách trong đời, lời lẽ trị
thế, nghề nghiệp nuôi sống, v . v . đều thuận
chánh pháp.
XX. Phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát.
1) Để chỉ rơ công hạnh tŕ kinh bền vững
như thế nào, và kết quả như thế nào, trong phẩm
này đức Phật tự thuật tiền thân của
Ngài để chứng thật : Trong thời tượng
pháp của Phật Oai-Âm-Vương, đức Thích Ca là một
vị Bồ Tát tỳ kheo tên Thường-Bất-Khinh tŕ
kinh Pháp-Hoa này và đem Phật huệ b́nh đẳng giáo
hóa chúng sanh. Nhiều phen bị hủy nhục, nào bị mắng
nhiếc, nào bị đánh đập, mà vẫn tuyệt
nhiên không hề móng một niệm chán nản, không chút giận
hờn cũng không biết mỏi nhọc.
2) Vị tỳ kheo đó lúc sắp chết, nơi giữa
hư không nghe trọn hai mươi ngàn muôn ức bài kệ
kinh Pháp-Hoa của đức Oai-Âm-Vương Phật
đă nói thủa trước, nghe xong có thể thọ tŕ,
liền đặng nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân cùng ư
căn thanh tịnh. Rồi lại sống thêm hai trăm
muôn ức na-do-tha tuổi, rộng v́ người nói kinh
Pháp-Hoa.
XXI. Phẩm Như Lai Thần Lực.
1) Đến nay chúng hội hiện tiền đă viên ngộ,
và chúng sanh ở thời vị lai cũng sẽ được
các vị Bồ Tát nguyện bảo vệ vững vàng, cho
nên đức Như Lai vui ḷng bèn tận hiện thần lực
:
a) Khắp thân tất cả chân lông đều phóng ánh
sáng soi khắp mười phương thế giới,
lưỡi rộng dài đến trời Phạm Thế,
tiếng vang khắp mười phương, cơi đất
sáu điệu vang động, đó là toàn thân thổ lộ.
b) Đương hội chư Phật, tất cả cũng
đều phóng ánh sáng hiện tướng lưỡi rộng
dài, tiếng vang khắp mười phương, đó là
hiển rơ nghĩa "Phật Phật đạo đồng"
vậy.
c) Thập phương chúng sanh đều ở tại
cơi ḿnh mà đồng thấy cơi Ta Bà, thấy bảo tháp, thấy
các đức Như Lai, thấy chúng hội, v.v., đó là
chỉ rằng : hễ t́nh mê cố chấp thời tri kiến
bị hạn cuộc trong gang tấc, nay nhờ thần lực
của đức Phật nên chỗ thấy triệt thấu.
d) Thập phương xướng truyền đức
Phật cùng kinh Pháp-Hoa, đó là biểu nghĩa Phật, tâm
và chúng sanh cùng tương ứng, tất cả mọi loài
đồng đủ tự tánh Phật-tri-kiến vậy.
e) Mười phương thế giới thông đạt
không ngại như một cơi Phật, chính là soi rỗng
pháp thân chơn cảnh, trừ bỏ tâm hẹp ḥi hữu
hạn của sơ tâm cùng nhị thừa vậy.
2) Thần lực của đức Phật quảng
đại tự tại như thế, mà đức
Như Lai c̣n nói rằng : Dầu ta có dùng thần lực trải
qua vô lượng kiếp cũng không thể nói hết công
đức của kinh Pháp-Hoa này, đó chính bởi v́ kinh này
gồm nhiếp tất cả pháp của Như Lai, tất
cả thần lực của Như Lai, tất cả tạng
bí yếu của Như Lai cùng tất cả sự vụ của
Như Lai.
XXII. Phẩm Chúc Lụy.
1) Lúc bấy giờ đức Thích Ca Mâu Ni Phật từ
nơi pháp ṭa đứng dậy, hiện sức thần
thông lớn, dùng tay mặt xoa đảnh của vô lượng
đại Bồ Tát mà nói rằng : "Ta ở trong vô
lượng kiếp tu tập pháp Vô thượng chánh đẳng
chánh giác khó đặng này, nay đem phó chúc cho các ông, các ông
nên phải một ḷng lưu bố pháp này làm cho thêm nhiều
rộng. ở đời vị lai nếu có người
thiện nam tử, thiện nữ nhân nào tin trí-huệ của
Như Lai, thời các ông phải v́ đó diễn nói kinh Diệu
Pháp Liên Hoa này khiến đều đặng nghe biết,
v́ muốn cho người đó đặng trí huệ của
Phật vậy."
2) Lúc đó các vị đại Bồ Tát nghe Phật
nói thế, đều rất vui mừng và lên tiếng bạch
rằng : "Như lời Thế Tôn dậy, chúng con sẽ
vưng làm đầy đủ, kính xin đức Thế
Tôn chớ có lo."
3) Khi đó đức Thích Ca Mâu Ni Phật khiến các
đức Phật phân thân ở mười phương
đến, đều trở về bổn độ mà
nói rằng : "Các Phật đều tùy theo chỗ an tháp
của Phật Đa Bảo đặng hườn như cũ."
XXIII. Phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn
Sự.
1) Từ trước hiển lư đă viên, nay sẽ hiển
"Hạnh" để chỉ rơ chứng nhập Phật-tri-kiến
vậy. Do đó đức Phật nói Phẩm bổn sự
của ngài Dược Vương, chính là chủ ư rằng
dầu đă ngộ viên lư, nhưng vào tục lợi sanh, ắt
cần nhờ thuốc hay chỉ quán, phương thần
điều trị, để tiêu trừ vô minh phiền
năo, phá ngă chấp và pháp chấp, thành diệu hạnh, mới
có thể thật "chứng nhập" vậy.
2) Đức Phật kể : Thủa xưa có Phật hiệu
Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai, ngài có vô số
Bồ Tát, trong số đó có ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh
Hỷ Kiến Bồ Tát, tinh tấn kinh hành, đặng
"hiện nhất thiết sắc thân tam muội".
Bèn cúng dường Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật
và kinh Pháp-Hoa bằng :
a) Hiện ra hoa mạn đà la và bột chiên đàn
rưới xuống ;
b) Rồi dùng sức nguyện thần thông mà tự
đốt thân. Sau khi mạng chung, lại sanh trong nước
của Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật.
Nhưng đức Phật lại bảo ngài Bồ Tát rằng
: "Giờ ta nhập Niết Bàn đă đến, ông nên
sắp đặt giường toà". Rồi Phật diệt
độ, Bồ Tát làm giàn hỏa, thâu lấy xá lợi,
đựng trong b́nh báu, xây tháp báu.
c) Bấy giờ ngài Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến
Bồ Tát lại tự đốt cánh tay để cúng
dường thêm, và lập lời thề rằng : "Tôi
bỏ hai tay ắt sẽ đặng thân sắc vàng của
Phật, nếu thiệt không dối, thời khiến hai
tay tôi hoàn phục như cũ." Nói lời thề xong
hai tay tự nhiên hoàn phục, đó là do phước đức
trí huệ thuần hậu của Bồ Tát cảm nên.
3) Đức Phật nói tiếp : "Nhứt Thiết
Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát chính nay là Dược
Vương Bồ Tát đó. Ông ấy bỏ thân bố
thí số nhiều vô lượng trăm ngàn muôn ức
na-do-tha như thế. Nếu có người phát tâm muốn
đặng đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác, có thể đốt một ngón tay, một ngón chân
để cúng dường tháp của Phật, th́ hơn
đem quốc thành, thê tử, các vật trân báu mà cúng dường.
Nếu lại có người đem bẩy thứ báu đầy
cả cơi tam thiên đại thiên cúng dường, công đức
của người đó chẳng bằng người thọ
tŕ kinh Pháp-Hoa này nhẫn đến một bài kệ bốn
câu. V́ kinh này là vua của các kinh."
4) Trong phẩm này nói rơ lư "ư sanh thân", nghĩa là
khi đạo hạnh viên măn, th́ tâm tạo ra được
thân thể, hoàn phục được chân tay đă tự
thiêu. Hai phẩm kế là Diệu Âm và Quan Âm cùng một ư nghĩa.Ơ
XXIV. Phẩm Diệu Âm Bồ Tát.
1) Lúc bấy giờ đức Thích Ca Mâu Ni Phật
phóng ánh sáng soi khắp các cơi. Trong đó có thế giới
tên là Tịnh quang Trang Nghiêm, có đức Phật là Tịnh
Hoa Tú Vương Trí, và Bồ Tát là Diệu Âm. Khi quang minh của
đức Phật Thích Ca soi đến thân vị Bồ
Tát đó, th́ vị này liền xin phépTịnh Hoa Tú
Vương Tri Phật sang cơi Ta Bà để ra mắt đức
Thích Ca Mâu Ni Phật cùng các vị Bồ Tát ở đó. Rồi
chẳng rời khỏi ṭa, thân chẳng lay động mà
vào trong tam muội, tới ngay núi Kỳ Xà Quật cách pháp
ṭa chẳng bao xa, hóa làm tám muôn bốn ngàn hoa sen báu.
2) Theo lời yêu cầu của Văn Thù Sư Lợi
Bồ Tát, và sự ưng thuận của đức Phật,
ngài Diệu Âm Bồ Tát liền hiện h́nh đảnh lễ.
Ngài Hoa Đức Bồ Tát bèn hỏi : "Ngài Diệu Âm Bồ
Tát trồng cội lành ǵ, tu công đức ǵ, mà có sức
thần thông như thế ?" Và đức Phật trả
lời : "Diệu Âm Bồ Tát này đă từng cúng
dường gần gũi vô lượng các đức Phật,
từ lâu trồng cội công đức. Hoa Đức ! Ông chỉ
thấy Diệu Âm Bồ Tát thân h́nh ở tại đây, mà
Bồ Tát đó hiện các thứ thân h́nh khắp nơi, v́
hàng chúng sanh nói kinh điển này. Ngài dùng tam muội tên là
"Hiện nhứt thiết sắc thân" để hiện
thân Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát hoặc thân h́nh Phật".
XXV. Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát.
Phổ Môn.
1) Phẩm Diệu Âm chỉ mới diễn tả quả
"ư sanh Thân", c̣n phải tác ư xuất nhập tam muội
cho nên có qua có lại. Đến Phẩm Phổ Môn lại
đi xa thêm một bước, đức Quán Thế Âm Bồ
Tát có thể phổ môn thị hiện không khứ không lai,
không xuất nhập, cho nên nói rằng Phổ Môn thị Hiện,
nghĩa là thị hiện khắp mọi nơi (phổ là
phổ quát, phổ biến).
2) Trước tiên, Vô Tận ư Bồ Tát hỏi đức
Phật : " Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát do nhân duyên ǵ mà tên
là Quán Thế Âm ?" Và đức Phật giải thích :
"Nếu có vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng sanh
chịu các khổ năo, nghe Quán Thế Âm này một ḷng
xưng danh, Ngài sẽ xem xét tiếng tăm kia, đều
đặng giải thoát, dù là bị hỏa nạn, thủy
nạn, v . v . Niệm danh Quán Thế Âm Bồ Tát c̣n diệt
trừ được dâm dục, sân, si.
3) Vô Tận ư Bồ Tát hỏi thêm : "Quán Thế Âm Bồ
Tát dạo đi trong cơi Ta Bà như thế nào ? Sức
phương tiện việc đó thế nào ?" Và đức
Phật trả lời : " Quán Thế Âm Bồ Tát có thể
biến hóa thành thân Phật, Duyên Giác, Thanh Văn, tiểu
Vương, trưởng giả, người nữ, v . v
. để tùy người nói pháp thích hợp với
người đó ".
4) Vô Tận ư Bồ Tát bèn dâng Quán Thế Âm Bồ Tát
chuỗi ngọc. Lúc đầu Quán Thế Âm Bồ Tát không
nhận, để diễn tả ư sau đây : Người
niệm danh Phật hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát mà ư nghĩ
chẳng lành ( ví dụ muốn buôn bán nhất bản vạn
lợi), th́ không thành tựu được đâu. Phải
có ư nghĩƠ chánh, th́ việc niệm Phật mới hiệu
nghiệm.
5) Nói tóm lại, Quán Thế Âm là quán sát để phân biệt
các tiếng nói của tâm tưởng, bất kỳ cảnh
ngộ nào. Và mục đích của pháp Quán Thế Âm Bồ
Tát là trong sạch hóa tư tưởng của ngươi
tu tập. trọng tâm của pháp này là nghe tiếng mà thấy
đạo, nghe tiếng mà hành đạo, thật là giản
dị, không khó khăn như các pháp khác, như quán lư Sắc-Không.
XXVI. Phẩm Đà La Ni.
1) Đà La Ni nghĩa là tổng tŕ, gồm nhiếp các pháp.
Bởi v́ thức tạng là hang vực rất sâu rất
kín. Tập khí tiềm phục trong đó, sức Chỉ
cùng Quán khó có thể vào đến, vào c̣n không đến
được thời thế nào dứt trừ được,
dứt trừ không được thời bị nó làm tổn.
Do đó cần phải nhờ sức tổng tŕ thần
chú để công phạt tập-khí, v́ tổng tŕ là tâm ấn
bí mật của chư Phật vậy.
2) Có 3 môn gia tŕ là : Thần lực gia tŕ, Pháp lực gia
tŕ, và hiện thân diện ngôn thuyết gia tŕ. Thần lực
gia tŕ chính là phẩm Đà La Ni này. Trong phẩm này, lần
lượt Dược Vương Bồ Tát, Dơng Thí Bồ
Tát, Tỳ Sa Môn thiên vương, Tŕ Quốc thiên
vương, rồi đến các La Sát nữ, nói ra các bài
chú.
XXVII. Phẩm Diệu Trang Vương Bổn Sự.
1) Thủa xưa, có vị vua tên Diệu Trang Nghiêm, có vợ
và hai con trai có sức thần thông lớn, phước
đức trí huệ, từ lâu tu tập đạo hạnh
của Bồ Tát. Nhưng vua lại tin theo ngoại đạo.
Hai người con thương cha bèn bay lên hư không làm các
phép lạ để cảm hóa cha : trên thân ra nước,
dưới thân ra lửa, hoặc dưới thân ra nước,
trên thân ra lửa, hoặc hiện thân lớn rồi lại
hiện nhỏ, v . v . Vua thấy lạ, bèn hỏi nguyên do,
và các con trả lời : "Chúng con học đạo
nơi đức Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Phật nay
đương ngồi trên pháp ṭa dưới cây bồ
đề, rộng nói kinh Pháp-Hoa". Vua bèn theo vợ và con
đến nghe, và đồng gia xuất gia, được
chánh quả.
2) Trong phẩm này, Pháp Thân Bồ Tát đặng vô phân
biệt tâm, tương ứng với trí dụng của
chư Phật, nương pháp lực tự nhiên tu hành,
chơn như nội huân diệt vô minh, cho nên gọi là pháp
lực gia tŕ vậy.
XXVIII. Phẩm Phổ HIền Bồ Tát Khuyến
Phát.
1) Lúc bấy giờ ngài Phổ Hiền Bồ Tát cùng vô
lượng chúng đại Bồ Tát, và vô số các đại
chúng : Trời, rồng, dạ xoa, Càn thát bà, nhân, phi nhân, v.v.
đến cơi Ta Bà, trong núi Kỳ Xà Quật mà bạch Phật
rằng : "Xa nghe nói cơi Ta Bà này nói kinh Pháp-Hoa, nên đồng
đến để nghe thọ,Ơ cúi mong đức Thế
Tôn nên v́ chúng con nói đó".
2) Phật bảo Phổ Hiền Bồ Tát rằng :
"Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân thành tựu
bốn pháp, thời sau khi Như Lai diệt độ sẽ
đặng kinh Pháp-Hoa này : một là được các
đức Phật hộ niệm, hai là trồng các cội
công đức, ba là vào trong chánh định, bốn là phát
ḷng cứu tất cả chúng sanh. "
3) Lúc đó ngài Phổ Hiền Bồ Tát bạch Phật
rằng : "Thế Tôn ! Năm trăm năm sau trong đời
ác trược, nếu có người thọ tŕ kinh điển
này, con sẽ giữ ǵn trừ các sự khổ hoạn làm
cho đặng an ổn."
4) Đức Phật khen ngợi và trao cho Phổ Hiền
Bồ Tát nhiệm vụ hộ tŕ kinh Pháp-Hoa. "Nếu
có người thọ tŕ, đọc tụng, ghi nhớ
chơn chánh tu tập biên chép kinh Pháp-Hoa này, phải biết
người đó thời là thấy đức Thích Ca Mâu
Ni Phật như từ miệng Phật mà nghe kinh điển
này. Phải biết người đó được Phật
lấy tay xoa đầu. Phải biết người
đó được Phật lấy y trùm cho, v . v ."
5) Trong phẩm Khuyến Phát này là hiển nghĩa chứng
nhập, mà lại nói tín-thành-tựu đó, là v́ ban sơ do
ngài Văn Thù phát tín nương tín sanh giải, nương
giải phát hạnh, hạnh khởi giải tuyệt thành
chứng-nhập, chính là viên măn thành tựu tín tâm vậy. Do
những nghĩa trên đây, nên cần phải nhờ Phổ
Hiền khuyến-phát đặng bốn pháp thời tất
đặng kinh này.
Tổng
Kết.
Trong phần đại cương của bài tiểu
luận này, chúng tôi đă tŕnh bầy rằng bộ kinh
Pháp-Hoa, ngoài phẩm Tựa, có thể chia làm 4 phần, lần
lượt KHAI (mở tâm chúng sanh để đón nhận
lời Phật dạy ; hộ tŕ chúng sanh THị (thấy)
được pháp thân Như Lai ; giải thích rằng việc
NGộ (hiểu) Phật-tri-Kiến khó khăn, đ̣i hỏi
sự tu tập trong nhiều kiếp ; cuối cùng nói đến
hạnh của Bồ Tát để chứng NHậP (vào) Phật-tri-kiến.
Đến phần Tổng Kết này, chúng tôi sẽ tóm tắt
lại các phẩm để quư đạo hữu thấy
rơ cơ cấu của kinh Pháp-Hoa, đi từ ư kiến này
đến ư kiến sau rất là mạch lạc :
- Phẩm Tựa (I) nói lên nhân do pháp hội, tràn ngập
không khí mầu nhiệm, rồi Văn Thù Bồ Tát giải
thích rằng phép lạ đó báo hiệu đức Phật
sắp nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Phần
Khai.
-Phẩm Phương Tiện (2) nói rơ ba thừa chỉ
là phương tiện để đi đến nhất
thừa.
- Phẩm Thí Dụ (3) : Đức PHật ví cơi đời
khổ năo như nhà lửa, muốn cho chúng sanh ra khỏi
nhà lửa, Phật hứa cho ba cỗ xe, nhưng rồi
cho cỗ lớn nhất dụ cho Đại Thừa.
-Phẩm Tín Giải (4) : Đă hiểu ư nghĩa đó, bốn
đại đệ tử nói dụ Cùng Tử để
hiển lộ ư chúng sanh trước kia không tin rằng ḿnh
chính là con đức Phật, có phần Phật ở đạo,
măi đến nay mới giải được ḷng tin
đó.
- Phẩm Dược Thảo Dụ (5) : Đức Phật
nói thêm rằng trận mưa không riêng tư, nhưng cây cỏ
tùy loại được hưởng ít hay nhiều. Cũng
vậy, Phật đạo b́nh đẳng, nhưng chúng
sanh được độ ít hay nhiều, tùy theo căn
cơ.
-Phẩm Thọ Kư (6) : Đức Phật bèn thọ kư cho
4 vị đại đệ tử.
-Phẩm Hóa Thành Dụ (7) : C̣n lại số đông A
La Hán, nghĩ rằng chỉ có 4 vị đại đệ
tử đă theo Phật thừa mới được thọ
kư, c̣n ḿnh đă theo Duyên Giác thừa th́ khó dự phần. Đức
Phật thương sót, bèn nói dụ Hóa Thành làm chỗ tạm
nghỉ cho khách bộ hành. Quyền thừa cũng như vậy,
cuối cùng phải bỏ để đi tới một
Phật thừa mà thôi.
-Phẩm Ngũ Bá Đệ Tử Thọ Kư (8) : Sau khi nói
phẩm trên, đức Phật thọ kư cho cả 500 đệ
tử.
-Phẩm Thọ Học Vô Học Nhân Kư (9) : hạng
Thanh Văn cũng được thọ kư.
-Phẩm Pháp Sư (10) : Vậy là cả 4 vị đại
đệ tử, 500 vị A La Hán, rồi đến hạng
Thanh Văn đều được thọ kư, nghĩa là
được hứa sẽ thành Phật. Nhưng muốn
đạt được chánh quả này, c̣n phải tu tập
nhờ về công giáo hóa của Pháp Sư là người hoằng
truyền kinh Pháp-Hoa.
Phần
Thị.
Đă khai tâm chúng sanh xong, đức Phật bèn Hiện Bửu
Tháp (11) để cho chúng sanh thấy rơ cảnh Phật nhiệm
mầu, thấy đức Phật Đa Bảo từ thời
quá khứ xa xưa vẫn c̣n ngồi y nhiên trong bửu
tháp, hiển lộ ư rằng Phật dù có nói diệt độ
nhưng thật ra vẫn hằng cửu.
Phần
Ngộ.
Chỉ bầy Phật-tri-kiến không dễ ǵ đặng,
các Phật tử phải bền ḷng không sợ đường
xa :
-Phẩm Đề Bà Đạt Đa (12) : vị này trong hiện
kiếp tuy có làm hại Phật, nhưng cũng đă khổ
công tu tập rồi sau sẽ thành Phật.
-Phẩm Tŕ (13) : Các vị Bồ Tát nguyện hộ trợ
chúng sanh trong những đời sau.
-Phẩm An Lạc Hạnh (14) : đức Phật nói
rơ 4 hạnh An Lạc của các vị Bồ Tát để
thủ hộ kinh Pháp-Hoa.
-Phẩm Tùng Đại Dũng Xuất (15) : không những
Bồ Tát mười phương, mà cả những Bồ
Tát ở cơi Ta Bà cũng từ dưới đất vọt
lên để nguyện hộ tŕ Phật pháp.
-Phẩm Như Lai Thọ Lượng (16) : Nhưng các
đệ tử c̣n nghi rằng trong thời gian rất ngắn
đức Phật tại thế, làm sao có thể giáo hóa
được vô lượng Bồ Tát ? Do đó đức
Phật nói phẩm này để chỉ rơ ngài không phải
chỉ là đức Phật Thích Ca lịch sử, mà Ngài
đă trải qua vô lượng vô biên kiếp. Sự diệt
độ của Ngài ví như vị lương y giả
đi xa để khiến các con uống thuốc giải
độc.
-Phẩm Phân Biệt Công Đức (17) : đức Phật
nhấn mạnh rằng phải tin chắc rằng Pháp thân
thường trú th́ mới ngộ được Phật-tri-kiến,
công đức đó siêu việt tất cả hữu vi
công đức như bố thí, cúng dường Phật.
-Phẩm Tùy Hỷ Công Đức (18) : chỉ một niệm
tùy hỷ cũng là một công đức vô cùng to lớn.
-Phẩm Pháp Sư Công Đức (19) : cũng ư trên đối
với các vị Pháp sư, sẽ được sáu căn
thanh tịnh.
-Phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát (20) : nêu
gương ngài Bất Khinh Bồ Tát, một tiền thân của
đức Phật, đă tŕ kinh cực độ, dù bị
hủy nhục vẫn không sân hận.
-Phẩm Như Lai Thần Lực (21) : Đến đây,
thấy các đệ tử không c̣n nghi ngại ǵ nữa,
nên đức Phật vui ḷng hiển lộ thần thông,
phóng hào quang soi chiếu mười phương.
-Phẩm Chúc Lụy (22) : và trao trách nhiệm truyền
pháp cho các vị Bồ Tát.
Phần
Nhập.
Muốn nhập Phật-tri-kiến, phải làm hạnh
đầy đủ sau khi đă tri Phật pháp. Phần
này gồm có 6 phẩm cuối :
-Phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự
(23) : nói về hạnh của Bồ Tát Dược
Vương hy sinh cúng dường Phật.
-Phẩm Diệu Âm Bồ Tát (24) : nói về hạnh của
Bồ Tát Diệu Âm, biến hóa hiện đủ thân h́nh.
-Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn (25) : cũng
ứng hiện khắp mọi nơi khi nghe tiếng cầu
cứu.
-Phẩm Đà La Ni (26) : dùng thần lực da tŕ, để
công phạt tập khí.
-Phẩm Diệu Trang Nghiêm Bổn Sự (27) : dùng pháp lực
da tŕ, để chuyển thức thành trí.
-Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát (28) :
dùng hiện thân diệu ngôn da tŕ, được đức
Phật ngợi khen và trao phó đặc biệt nhiệm vụ
hộ tŕ kinh Pháp-Hoa.
Nói tóm lại, kinh Diệu Pháp Liên Hoa này là bộ kinh Đại
Thừa, là vua trong các kinh, lời văn không khó hiểu lắm,
nhưng đầy những phép lạ thần thông, kẻ
không tin cho như là truyện Phong Thần hoặc truyện
Khoa Học giả tưởng (science fiction). Cái khó là làm sao
tin được ? Người Thiên Chúa giáo đă dám tin những
phép lạ của đức chúa Jésus, tại sao Phật tử
chúng ta lại không dám tin những phép lạ của bổn
sư Thích Ca Mâu Ni Phật ? Niềm tin có thể di sơn
đảo hải, có thể đưa người Thiên
Chúa giáo đến bên cạnh chúa Jésus, cũng có thể biến
kẻ phàm phu thành Phật.
Vậy chúng ta chớ quá nghi ngại. Cứ thành tâm thiện
chí tụng kinh Pháp-Hoa, tự khắc sẽ thấy khởi
tín, v́ cái phép lạ chính của bộ kinh này, không phải ở
những phép lạ nói trong kinh, mà là ở chỗ nó khơi
dậy được ở Phật tử niềm tin kỳ
diệu, niềm tin chơn thật, không để cho lối
suy tư phàm phu (căn cứ vào 6 thức ô nhiễm) che lấp
mất bản thể Chơn Như vô cùng vi diệu, vô cùng
trong sáng vẫn ở trong người chúng ta. Hơn thế
nữa, để cho sự phát khởi niềm tin
được dễ dàng hơn, xin đề nghị quư
đạo hữu, sau khi học kinh này, tiếp tục học
đến cuốn Lăng Kính Đại Thừa của cụ
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng, đối chiếu với những
khám phá tối tân của khoa học hiện đại, cung
cấp cho độc giả một ư niệm giản dị
về sự cấu tạo của các pháp giới bằng
thần lực của Phật, nguyện lực của Bồ
Tát, và nghiệp lực của chúng sanh.
Mong rằng tất cả chúng ta, sau khi cùng nhau học
tập kinh Pháp-Hoa và cuốn Lăng Kính Đại Thừa, sẽ
phát được ḷng tin chân thật, ḷng tin có căn bản
chứ không phải là ḷng tin hời hợt của những
người không hiểu rơ.
(Đọc Tiếp Phần II)
Phước Quế Dương Đ́nh Khuê