Phật Học Lược Giải

của

Phước Quế Dương Đ́nh Khuê

 

Phần Thứ Nhất

 

I. Hai Vấn Đề Tiên Quyết.

A. V́ đời người là bể khổ.

1) Trong cuộc đời, ai cũng có những lúc vui sướng và những lúc buồn khổ, dù là kẻ cùng đinh hay bậc cực quư, cực phú. Nói chung, quan niệm của loài người là như vậy : đời vừa có vui, vừa có khổ. Và đó cũng là quan niệm thông thường của các tôn giáo ngoài Phật giáo, và của các hệ thống triết học (trừ một vài đặc lệ như triết học bi quan của Schopenhauer).

Người Gia Tô giáo sung sướng và thấy ḷng ḿnh được b́nh an trong t́nh thương của Đức Chúa. Đôi khi họ cũng thấy khổ, nhưng coi cái khổ đó là thử thách của Đức Chúa, nên nhẫn nhục chịu đựng.

Khổng học th́ lại rất lạc quan. Cái học của người quân tử là tu, tề, trị, b́nh. Có phận th́ ra làm quan, giúp vua, giúp nước. Không phận th́ lui về làm ruộng, làm một tên bạch đinh, cũng vui.

Tinh thần Đông phương an bần thủ phận đó c̣n rơ ràng hơn nữa trong Đạo giáo, coi công danh phú quư như phù vân. Nhưng người đạo sĩ cũng như nho sĩ, vẫn lạc quan. Họ chỉ tránh tục lụy của xă hội nhiều lễ giáo bó buộc, phiền phức. Và họ đành ḷng vui thú với một cuộc đời đạm bạc, với gió mát trăng thanh.

2) Chỉ riêng Phật giáo là có một luận điệu triệt để và tổng quát : đời người là bể khổ. Trong diệu đế thứ nhất là Khổ đế, đức Phật đă nói dứt khoát : "Sinh là khổ, chết là khổ, cái ǵ ưa thích mà phải rời là khổ, cái ǵ ghét mà phải gần là khổ . . ."

3) Quan niệm bi quan như thế có đúng không ? Phải nhận rằng phần đông thế nhân khó mà chấp nhận nó một cách triệt để, mặc dầu nó căn cứ trên kinh nghiệm của đức Phật (qua cuộc tuần du ở bốn cửa thành) và của chính chúng ta khi chúng ta gập những việc bất như ư. Tuy nhiên, nếu chịu khó nghĩ kỹ, th́ sẽ thấy rằng không những cái khổ không thể tránh, mà cái gọi là sướng cũng đă có sẵn mầm khổ :

- Cái vui sướng chỉ có trong chốc lát, không được trường tồn. "Không có bữa tiệc nào là không có lúc tàn ", do đó cái vui sướng không được hoàn toàn. Hơn thế nữa, nó c̣n làm cho người ta trong lúc vui sướng phải lo lắng sợ nó chóng hết, ví dụ người được bổ vào làm một chỗ béo bở luôn luôn lo lắng không biết lúc nào sẽ mất chỗ đó.

- Cái vui sướng đôi khi phải trả giá trước bằng một cái khổ. Ví dụ muốn có cái sướng thi đỗ th́ phải chịu khổ học ngày, học đêm: muốn có cái sướng được làm ông lớn th́ có khi phải khổ quỵ luỵ luồn cúi.

- Cái vui sướng đôi khi có hậu quả là đem lại một cái khổ. Ví dụ sau một bữa tiệc thịnh soạn có thể bị bội thực, có nhiều tiền sẽ bị người ḍm dỏ, có địa vị sẽ bị người ghen ghét.

- Cái vui sướng của người này đôi khi là cái khổ của người khác. Ví dụ người đánh bạc được sướng th́ người thua bạc khổ, ông quan ăn tiền sướng th́ người dân bị bóc lột khổ, gian thương làm giầu sướng th́ người cùng đinh khổ. . .

4) Dù có hiểu điều đó, rằng trong cái sướng đă có sẵn mầm khổ, phần đông chúng ta vẫn chưa sẵn sàng chấp nhận Khổ đế của Phật giáo. V́ sao ? V́ chúng ta có thể nghĩ rằng : Ừ, Ơở đời có người khổ thiệt, đói rét, không nhà cửa, không có cha mẹ vợ con để được nương tựa và an ủi. Nhưng chúng ta may mắn không phải chịu kiếp sống khổ cực đó. Ừ, chúng ta cũng có những ngày giờ đau khổ : khi ốm đau bệnh tật, khi cha già mẹ héo, khi phải lo lắng cho con cái, v . v . Mặc dầu vậy, những ngày giờ đau khổ đó ít, những ngày giờ vui sướng nhiều hơn, cái này bù đắp cái kia, vậy việc ǵ phải bi quan, phải nhận đời người là bể khổ ? Việc ǵ phải khó nhọc tu hành, việc ǵ phải ép xác giữ giới ?

Nếu ta chỉ có một cuộc đời, một kiếp sống, th́ lư luận trên có thể đứng vững. Hơn thế nữa, cả luận điệu của một số người gian ác cũng sẽ đứng vững. Họ bảo : "Sống là bậc thánh nhân như Văn Vương và Khổng Tử, chết là xương khô. Sống là kẻ tàn bạo như Kiệt, Trụ, chết cũng là xương khô. Vậy tuy biết rồi sẽ có lúc khổ, nhưng được lúc nào vui sướng hăy biết lúc đó, cứ gian ác tàn bạo để cướp lấy phú quư, tội ǵ ép ḿnh làm điều thiện ?"

Khốn thay, chết đâu phải là hết, sẽ c̣n phải tái sinh trong muôn ngàn kiếp nữa. Mà ai dám chắc rằng kiếp sau ḿnh sẽ lại may mắn như ở kiếp này, sẽ không bị cơ hàn, tứ cố vô thân ? Biết đâu kiếp sau sẽ không bị tàn tật ngay khi sinh ra đời, câm, mù, xấu xí ghê tởm, hay ngu si đần độn ? Phải, biết đâu không, nhất là ở kiếp này nếu đă có làm điều ǵ thất đức ? Cái tương lai mờ mịt đó thật là khủng khiếp. Nhắm mắt chối bỏ nó, khác nào người đi trên con đường bằng phẳng, biết rằng cuối đường sẽ là vực sâu thăm thẳm, mà không t́m cách đi rẽ sang con đường khác ? Ai lại có thể ngu si hay ương ngạnh ngoan cố như thế được ?

Vậy giáo lư luân hồi bổ khuyết cho giáo lư đời là bể khổ , nó khiến cho ta, dù kiếp này tạm được sung sướng, cũng phải lo sợ cho kiếp sau mà mau mau t́m đường giải thoát.

Nhưng luân hồi có thiệt không ? Đó là vấn đề cốt yếu cần phải nghiên cứu cho minh bạch. Nếu nó sai, th́ toàn bộ giáo lư đạo Phật sẽ sụp đổ, v́ sẽ mất căn bản. Nếu nó đúng, th́ cứ nhơn nhơn túy sinh mộng tử trong một kiếp sống ngắn ngủi sẽ là một cử chỉ ngu si, tự gieo ḿnh vào khổ năo trong muôn vàn kiếp khác.

B. V́ có luân hồi.

1) Luân hồi không phải là một giả thuyết mà là một sự kiện có thật, đă được đức Phật kinh nghiệm, và một số chúng ta kinh nghiệm.

Kinh Trung A Hàm thuật rằng trong đêm đức Phật đắc quả Chánh Đẳng, Chánh Giác, lúc canh một, Ngài đắc Túc mạng Minh là tuệ nhớ lại những kiếp quá khứ, từ một kiếp, hai kiếp, rồi một trăm, một ngàn, một trăm ngàn kiếp.

Cứ tạm cho rằng kinh Trung A Hàm bịa đặt ra những chuyện hoang đường. Nhưng kinh nghiệm của chính chúng ta cũng cho ta cảm nghĩ rằng chúng ta đă từng sống một hay nhiều kiếp trước. Bao nhiêu lần t́nh cờ ta gặp một người chưa từng quen biết, nhưng tự nhiên cảm thấy h́nh như đă quen biết đâu đây ? Bao nhiêu lần ta mục kích một cảnh mà ta chưa từng đến nhưng tự nhiên có cảm giác đă quen thuộc ở một quá khứ vô định nào ?

2) Những cảm nghĩ đó có thể cho là vu vơ . Nhưng có điều không thể chối căi được là giả thuyết luân hồi giúp ta cắt nghĩa được một sự kiện mà các tôn giáo không chấp nhận nó không thể cắt nghĩa được thỏa đáng. Đó là vấn đề chế tài các hành vi thiện ác. Gia Tô giáo cho rằng mỗi người chỉ có một đời, sau khi chết th́ hoặc lên Thiên Đường, hoặc xuống Địa Ngục, hoặc vào Tĩnh tội giới (Purgatoire). Điều đó có thể đúng hay sai, chưa cần bàn đến, chỉ biết rằng trên quả đất này hiển nhiên có người thiện bị khổ sở, kẻ ác được sung sướng. Tại sao thế ? Nếu bảo rằng đó là ư muốn của Chúa, th́ Chúa há chẳng bất công lắm sao ? Nếu bảo rằng Chúa không can thiệp đến việc trần thế, ai làm ác, ai làm thiện, sẽ bị trừng phạt hoặc được đền bù sau khi chết, th́ vẫn chưa giải thích vấn đề tại sao ở đời hiện tại có người lành bị khổ, có kẻ ác được sung sướng.

Trái lại, đạo Phật với giáo lư luân hồi cắt nghĩa rất dễ dàng sự kiện trên. Kiếp trước gây nhân thiện hay ác, th́ kiếp này hưởng quả sướng hay khổ. Theo định luật Nhân Quả một cách tự động, như trồng dưa th́ được dưa, trồng đậu th́ được đậu, không cần phải có sự can thiệp của vị thần thánh nào cả.

3) Ngoài ra, giáo lư Luân Hồi c̣n cho phép ta giải thích một số sự kiện mà cả luật di truyền, khoa Tử Vi, và sự phát triển bất thường của một hạch nội tiết (glande endocrine) đều không thể giải thích được một cách thỏa đáng :

- Tại sao hai đứa trẻ cùng cha mẹ lại khác nhau về h́nh hài, tính t́nh, óc thông minh ? (luật di truyền gần giải đáp được ổn thỏa, nhưng vẫn chưa đủ).

- Tại sao hai đứa trẻ sinh cùng một nơi, cùng một giờ, lại có số phận khác nhau ? (trái với khoa Tử Vi).

- Tại sao một đứa trẻ mới vài tuổi đă học một biết mười, đă có thể nói nhiều thứ ngoại ngữ, hiểu toán học và triết học như người lăo thành, biết làm thơ, đánh đàn ? (hạch nội tiết không đủ để cắt nghĩa những bậc thần đồng đó, h́nh như chỉ ôn lại những ǵ đă học trong một hay nhiều tiền kiếp).

4) Những lư lẽ trên đây mới chỉ bênh vực giả thuyết Luân Hồi, nghĩa là nếu ta chấp nhận nó th́ nhiều vấn đề sẽ được giải thích thỏa đáng. Nhưng thật ra chúng ta chưa cắt nghĩa do đâu mà có luân hồi, và làm sao để chấm dứt luân hồi. Những điểm này sẽ được tŕnh bầy ở đoạn Thập Nhị Nhân Duyên.

II. Lư Luận Phật Học.

1) Những lời thuyết pháp của đức Phật nhiều khi có vẻ mâu thuẫn và nghịch lư. Tại sao vậy ?

- Người thường và cả các nhà khoa học cho tới gần đây đều lư luận trên nguyên lư đồng nhất của Aristote : A là A, B là B, một sự việc không thể đồng thời vừa là A, vừa là B.

- Biện chứng pháp của Hegel, không hẳn khước từ nguyên lư đồng nhất, đă cố gắng nối liền hai cái tương phản thành một, trong quá tŕnh Chánh đề - Phản đề - Tổng hợp. Ví dụ con gà đẻ ra trứng, rồi quả trứng hủy thể để thành con gà, rồi con gà lại đẻ ra trứng. Như vậy, tuy A vẫn là A, không phải là B, nhưng sẽ biến chuyển thành B. Nghĩa là khẳng định và phủ định là hai giai đoạn của một cái luôn luôn biến chuyển, chứ không phải hai trạng thái im ĺm bất động.

- Lư luận của nhà Phật đi xa hơn nữa, nghĩa là có thể vừa khẳng định, vừa phủ định. Vậy ta chớ vội phê phán rằng các kinh điển Phật giáo có lối lư luận h́nh như mâu thuẫn và nghịch lư. Ví dụ câu sau đây trong kinh Kim Cang : Cái gọi là Phật pháp tức chẳng là Phật pháp, nên gọi là Phật pháp. Phật nói chúng sinh, tức chẳng phải là chúng sinh, cho nên gọi là chúng sinh . v . v .

- Lẽ tự nhiên, vấn đề đặt ra là phải t́m hiểu tại sao Phật giáo lại có lư luận biện chứng như vậy ? Hegel dùng biện chứng pháp để chứng minh rằng ở đời chẳng có ǵ là trường tồn : luật lệ, ư niệm thiện ác, định chế xă hội, v . v . vạch rơ rằng sở dĩ mỗi sự vật phải biến chuyển sang cái khác v́ có sẵn mầm mâu thuẫn nội tại.

Nhưng Phật giáo có một lư do khác để xử dụng lư luận biện chứng. Ta sẽ biết rằng mục đích rốt ráo của Phật là đưa chúng sinh đến cảnh giới Chân Như tuyệt đối, tức là Chân Không Diệu Hữu. Nói một cách dễ hiểu hơn, cây cỏ, súc sinh, loài người, Phật, tất cả chỉ là những hiện tượng sai biệt của Tâm Vũ Trụ, sai biệt chỉ v́ mỗi chủng loại có tâm ở tŕnh độ mở mang khác nhau, nhưng tất cả đều đồng thể, đồng tánh. Nhưng giảng ngay như thế không được, v́ chúng sinh c̣n mê muội, nên đức Phật phải dần dần, từng bước từng bước một, phá cái chấp này, rồi phá đến cái chấp kia, rồi phá luôn cả cái chấp vào những điều Phật vừa giảng dạy. Đó là ư nghĩa của câu :Ơ Chớ nhận lầm ngón tay chỉ trăng làm mặt trăng.

2) Người Tây phương thường dùng lư trí để t́m hiểu uyên nguyên của Vũ trụ và ư nghĩa của cuộc đời, nghĩa là để t́m hiểu cái Tuyệt đối. Măi đến cuối thế kỷ thứ 19, người Tây phương mới cảm thấy rằng cái truyền thống duy lư mà họ thừa hưởng của văn hóa cổ Hy Lạp không đủ cho phép họ đạt tới Tuyệt đối. Do đó một số triết gia Tây phương như Nietzsche, Sartre mới đề xướng việc từ bỏ lư trí mà đem tâm thức vào ḍng hiện sinh, thể nghiệm chính ḿnh để đẩy ḍng hiện sinh của ḿnh nhập vào ḍng hiện sinh của Vũ trụ. Và có thểƠ họ đă đạt được mục đích đó, nhưng kết quả lại là sự nổi loạn (Nietzsche), hoặc buồn nôn (Sartre) v́ họ không có chí tu hành, không dám nghĩ rằng nhập làm một với bản thể vũ trụ có thể đưa họ đến cảnh giới siêu nhiên, đến thành Tiên, thành Phật. Tức là họ vẫn c̣n vương vít một chút lư trí phàm trần.

Người Đông phương th́ không thế. Họ không phải là những triết gia đi t́m Tuyệt Đối để hiểu, mà là những tu sĩ cố gắng ḥa ḿnh vào Bản Thể tuyệt đối bằng cách tu tâm dưỡng tánh. Vậy ta chớ ngạc nhiên khi thấy Thiền tông, là phái đại diện triệt để nhất tư tưởng Phật giáo, gạt bỏ lư trí, gạt bỏ cả các kinh điển (sau khi đă học) để cố gắng nhập Chân Như bằng công phu ngồi Thiền, nhập định. Nói một cách khác, nó là một phương pháp khai ngộ hơn là một giáo lư khai tri. V́ nó chủ trương khai ngộ rồi sẽ tri, không thể tri trước ngộ. Dưới đây, chúng ta sẽ có dịp xem xét quan điểm đó có đúng không, và đúng tới phần nào.

Phần Thứ Nhất : Giáo Lư.


I. Sự Phân Hóa Tư Tưởng Phật Giáo.

A. Nhận xét và định nghĩa.

Ai cũng biết rằng hiện nay Phật giáo chia làm 2 nghành chính là : Tiểu thừa và Đại thừa. Thật ra, trên lịch sử giáo hóa, vào thời đức Phật c̣n tại thế, chưa hề có Tiểu thừa, Đại thừa đối lập nhau. Tăt cả sự phân chia chỉ phát sinh sau thời đức Phật nhập Niết Bàn.

1) Nói chung, Tiểu thừa đối với giáo pháp hoặc hành pháp của Phật, chuyên đứng về mặt h́nh thức mà giải thích : Phật quy định thế nào th́ cứ thế mà thật hành, Phật nói thế nào th́ cứ thế mà tiếp thụ. Bởi vậy phái này có vẻ trung thực, và rất thịnh hành trong vài thế kỷ sau khi Phật nhập Niết Bàn. Nhưng đă quá câu nệ vào h́nh thức th́ tất nhiên sao lăng phần tinh túy. Kết quả là nền Phật giáo đầy hứng vị nhân sinh do đức Phật khai sáng, dần dần trở thành khô cứng.

2) Để đối lại chủ trương h́nh thức của Tiểu thừa (c̣n gọi là Thượng Tọa bộ), một số đông tín đồ, cả tăng lẫn tục, lập ra Đại thừa (c̣n gọi Đại Chúng bộ), chủ trương giải thích giáo pháp và giáo lư một cách rộng răi hơn, tự do hơn. Họ nói rằng giáo pháp và giáo lư của đức Phật cần phải phát triển rộng răi khi hoàn cảnh đă thay đổi. Nghĩa là, trên đại cương, Tiểu thừa th́ bảo thủ, c̣n Đại thừa th́ tự do cấp tiến. Bây giờ xin xét lại sự bất đồng giữa hai phái một cách chi tiết hơn.

B. Sự bất đồng về h́nh thức.

1/ Tiểu thừa lấy giáo hội làm bản vị, nên lấy tăng lữ làm chủ. Tuy có đủ 4 chúng : tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà ni, nhưng về mặt sinh hoạt của giáo đoàn th́ chỉ lấy người xuất gia làm chủ. Đại thừa, trái lại coi trọng cả những đệ tử tại gia, chứng cớ là bộ kinh Duy Ma Cật.

2/ Tiểu thừa có tính cách chuyên môn, chuyên lưu tâm về giới luật thật tỷ mỉ, và lấy việc chú thích các kinh điển sát với nghĩa làm công tác chính, cho nên các bộ luận của Tiểu thừa rất phiền toái, lư luận cứng nhắc. Trái lại, Đại thừa nhắm về đại chúng nên các bộ luận của Đại thừa đơn giản hơn, nhẹ về lư luận và nặng về trực giác. Ví dụ niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát để cầu xin cứu giúp, hoặc tin vào bản nguyện của Phật A Di Đà để cầu văng sanh tịnh độ, là những giáo pháp đơn giản và thông tục.

C. Sự bất đồng về nội dung.

1/ Tiểu thừa lấy đại đệ tử của Phật làm lư tưởng, v́ cho rằng Phật là một nhân vật đặc biệt, người thường không thể sánh kịp, dù có cố gắng tu hành cũng chỉ đến được quả vị A La Hán là cùng. Đại thừa, trái lại cho rằng hết thẩy chúng sinh đều có Phật tính, nên lấy Phật làm lư tưởng. Điều này được khẳng định rơ ràng trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Tín Giải, có nói dụ Cùng Tử.

2/ Nhận xét về đức Phật, Tiểu thừa coi Ngài là một nhân vật lịch sử đă sống ở Ấn Độ cách đây 2500 năm, một nhân vật đặc biệt do công phu tu luyện qua nhiều đời kiếp mới thành, nên không có một Phật nào khác.Trái lại, Đại thừa đă chủ trương rằng mọi người đều có Phật tính nên không hạn chế một Phật ở một thời gian và một thế giới nào, nhận có vô số Phật ở khắp thế giới và khắp thời gian, như đă nói ở kinh Lăng Nghiêm.

3/ Về Niết Bàn, Tiểu thừa quan niệm là một cảnh hư vô tuyệt diệt, hết cả phiền năo khổ đau. Trái lại, Đại thừa giải thích Niết Bàn là đại nguyện cứu độ chúng sinh, vĩnh viễn hoạt động mà tâm không nhiễm trước. Do đó, Đại thừa đề cao vai tṛ của các vị Bồ Tát như Địa Tạng và Quán Thế Âm, nguyện cứu độ tất cả chúng sinh trước khi thành Phật. Nói một cách khác, Tiểu thừa nghĩ đến tự độ và xuất thế là công việc chánh, c̣n Đại thừa th́ vừa xuất thế, vừa nhập thế để cứu độ chúng sinh.

V́ những điểm khác biệt đó, nên Đại thừa có nhận xét khác Tiểu thừa về Bản Thể Vũ Trụ, nhưng vẫn chung nhận xét với Tiểu thừa về các hiện tượng thế giới trong đó chúng ta đang sống.

II. Hiện Tượng Luận.

1. Vô thường.

A. Vạn vật đều vô thường, nghĩa là thay đổi luôn luôn. Đây là một sự kiện mà kinh nghiệm hàng ngày, khoa học, cho chí các tôn giáo khắp Đông Tây kim cổ đều xác nhận. Động vật nào cũng sinh, rồi già, rồi chết. Thực vật cũng vậy. Đến các khoáng chất, núi non, sông bể, cũng có sinh diệt, mặc dầu một đời người không nh́n thấy, nhưng Địa lư học, Địa chất học đều chứng minh rằng bể cũng đă từng trồi lên thành lục địa, núi cũng đă từng sụt xuống thành đại dương, trong khoảng vài ngh́n năm hoặc vài triệu năm. Ngay đến trái đất, mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, cũng phải tuân theo định luật sinh diệt nếu ta quan sát những khoảng thời gian dài vài tỷ năm, vài chục tỷ năm.

B. Tính cách vô thường trên đây, người phàm phu cũng biết. Sự hiểu biết của nhà Phật sâu sắc hơn :

1/ Sự biến đổi không phải lâu lâu mới xẩy ra, mà trong mỗi giờ, mỗi phút, mỗi sát-na, nghĩa là không lúc nào ngừng, mặc dầu ta không nhận thấy rơ rệt. Lăy một tỷ dụ sau đây dẫn chứng : ta quay phim một đóa hoa từ lúc hàm tiếu cho tới lúc nở tung, mỗi phút một tấm ảnh, mất nửa ngày. Trong thời gian nửa ngày đó, ta chăm chú nh́n hoa và lúc nào cũng có cảm tưởng rằng nó im ĺm bất động. Nhưng nếu ta đem quay cuốn phim, th́ sẽ thấy có sự thay đổi rất nhỏ từ mỗi tấm ảnh sang tấm ảnh kế tiếp.

Muôn sự cũng vậy, cây cỏ, thân thể ta luôn luôn thay đổi v́ các tế bào sinh sinh diệt diệt không ngừng. Núi sông cũng vậy, v́ nắng mưa, nóng lạnh, núi th́ luôn luôn bị ṃn mất đi từng ḥn đá, từng hạt bụi, c̣n sông th́ chỗ lở chỗ bồi, nước luôn luôn lưu chuyển từ nguồn ra biển.

2/ Vậy vạn sự vạn vật h́nh như hằng mà thật là chuyển. Hằng là tính chất nhận lầm, chuyển mới là tính chất thật. Từ ngàn xưa, Héraclite và kinh Dịch đă tuyên bố chân lư đó. Phật học lấy nó làm khởi điểm cho một cách nh́n vào các sự vật.

3/ Phật học lại c̣n đặc sắc ở chỗ đi từ ư niệm vô thường mà ai cũng dễ dàng chấp nhận, tới ư niệm Vô Ngă, một ư niệm mà thế tục cho là phi lư, là trái với nhận thức hiển nhiên.

2. Vô Ngă.

A. Thật vậy, ư niệm Vô Ngă khó chấp nhận hơn ư niệm Vô Thường. Đành rằng con sông phút này không y hệt con sông phút trước, cây tùng phút này không y hệt cây tùng phút trước, thằng Tôi lúc này, kể cả h́nh hài lẫn tâm tư, không y hệt thằng Tôi phút trước, tháng trước, năm trước, nhưng vẫn có con sông, cây tùng và thằng Tôi chứ ? Làm sao lại bảo rằng chúng không có tự ngă ?

B. Để trả lời câu hỏi đó, kinh Phật có ghi lại cuộc đàm thoại giữa vua Milanda và tu sĩ Nagasena (Tầu dịch là Na-tiên). Vua hỏi tu sĩ tên là ǵ, và được trả lời :

- Tâu bệ hạ, bọn đồng đạo gọi tôi là Nagasena. Nhưng đó chỉ là một dấu hiệu, một tiếng gọi. Chớ ở đây không có người Nagasena. V́ người Nagasena chỉ là một mớ tóc, lông, da, thịt, xương v . v ., không có một cái nào đó là Nagasena cả. Cũng vậy, cái xe của nhà vua gồm có gọng xe, bánh xe, thùng xe, v . v ., chẳng có bộ phận nào đó là cái xe cả. Vậy cái xe chỉ là một dấu hiệu, một tiếng gọi, nó không có thực.

Xin nói rơ thêm về điểm này một chút. Các bộ phận của h́nh hài ta có thể mất đi, đổi thay đi. Ví dụ tóc râu ta cạo đi, móng tay, móng chân ta cắt đi, chân tay bị cưa đi của người thương binh, con mắt, quả tim nay đă có thể thay đổi, rồi sau này biết đâu khoa học tiến bộ sẽ có thể thay đổi cả bộ óc ? Nói tóm lại, chẳng có cái bộ phận nào trong người là trường tồn, là có thể gọi là Ta.

C. Lối trả lời trên vẫn chưa đủ. Nó chỉ cho ta thấy rằng không có cỗ xe tự ngă, không có Nagasena tự ngă, mà chỉ có gọng xe, bánh xe, thùng xe, chỉ có mớ tóc, lông, da, thịtƠ v . v . Tiến lên một bước nữa, Phật giáo bảo rằng gọng xe, thùng xe, tóc, lông, da, thịt cũng không có nốt, chỉ là do tứ đại (địa, thủy, hỏa, phong) nghĩa là 4 yếu tố : đặc, lỏng, nóng, động, giả hợp mà thành ra. (Khoa học ngày nay cho ta biết rằng tứ đại là các nguyên tử, hay nói cho đúng hơn là các thành phần của nguyên tử như âm điện tử, dương điện tử, và trung ḥa tử (electrons, protons, neutrons) , v . v . C̣n Dịch học và Lăo giáo th́ gọi nó là âm dương).

Cái mà người ta thường gọi là Ta cũng vậy. Nó có 2 phần : một phần sinh lư là Thân, và một phần tâm lư là Tâm.

1/ Thân ta, cũng như mọi vật khác, đều do tứ đại giả hợp (tế bào nguyên tử). Hơn thế nữa, trong người tôi có thể đang có những nguyên tử hôm trước, tháng trước đă từng ở trong người đạo hữu, hoặc nhiều thế kỷ trước đă từng ở trong người Quan Công, Tào Tháo, Lê Lợi, Napoléon, chúng luôn luôn vận chuyển trong vũ trụ, đâu có cái nào là của riêng Ta, là cái Ta h́nh hài ? (Moi corporel)

2/ C̣n cái Tâm của ta ? Tâm linh của ta là ǵ ? Theo nhà Phật, tâm linh là sự hội họp của thất t́nh : hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục với những tri giác suy tưởng, khái niệm, phán đoán. Nhà Phật phân tích những thứ ấy ra làm bốn loại, gọi là : thọ, tưởng, hành, thức . Khi th́ ta vui, khi th́ ta buồn, chợt nghĩ đến cái này, rồi lại chợt nghĩ đến cái khác, chẳng khác ǵ ḍng sông luôn luôn trôi chẩy. Vậy nếu đem bỏ những cái không phải là Ta đó đi, th́ c̣n cái ǵ trường tồn có thể gọi là cái Ta tâm linh đâu ? (Moi psychique).

Vậy sắc (thân) và thọ, tưởng, hành, thức (Tâm) gọi chung là Ngũ Uẩn đều không có cái ǵ là Ta cả. Chỉ v́ nhân duyên giả hợp mà in tuồng như có.

3/ Như vậy, dưới con mắt siêu việt của đức Phật, mọi sự vật trong vũ trụ, núi sông, cây cỏ và con người, đều vô thường và vô ngă, tất cả chỉ là sự giả hợp của ngũ uẩn mà thôi, sinh rồi diệt, diệt rồi lại sinh, cái hiện tượng sinh sinh diệt diệt đó tuân theo nguyên lư Nhân Duyên Quả Báo thường gọi tắt là Nhân Quả.

3. Nhân duyên quả báo.

a. Của vạn pháp nói chung.

1/ Định nghĩa : Nhân (nghĩa đen là hột giống) tức là những sự vật có cái năng lực sinh sản ra Quả (nghĩa đen là trái cây). Duyên là những sự vật hỗ trợ cho Nhân sinh ra Quả. Tỷ như hột lúa có cái sức phát sinh ra cây lúa, th́ hột lúa là Nhân, cây lúa là Quả, mà tất cả những điều kiện thuận tiện như đăt, nước, phân, v . v . giúp cho hột lúa sinh ra cây lúa, đều gọi là Duyên.

Nhân Duyên ḥa hợp với nhau mới sinh ra vạn pháp. Nếu có Nhân mà thiếu Duyên, th́ Nhân cũng không sinh ra Quả được. Nếu chỉ có Duyên mà chẳng có Nhân th́ tất nhiên cũng không có Quả.

2/ Tŕnh bầy.

a) Nguyên lư Nhân Quả chính là nguyên lư Tăt Định (déterminisme) của khoa học ngày nay. Nó nói rằng có một số Nhân Duyên N.D. th́ tất nhiên phải có Quả Q. Nếu thiếu sót các N.D. th́ Q sẽ không thành. Ví dụ có hơi nước ở biển, sông, ao, hồ bốc lên thành mây, hoặc có mây nhưng lại không gập lạnh, th́ cũng không thành mưa.

Nguyên lư Nhân Quả chi phối toàn thể vũ trụ vật lư, do đó có trật tự trong vũ trụ, các hiện tượng không thể phát sinh một cách bừa băi, nay thế này, mai thế khác. Đun nước trên lửa th́ nước phải bốc hơi, không thể biến thành băng được. Không những thế giới vô cơ, mà cả thế giới hữu cơ cũng vậy, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.

b) Một mặt khác, nguyên lư Nhân Quả của nhà Phật c̣n có ư nghĩa sâu sắc hơn nguyên lư Tăt Định của khoa học. Không những nó bảo rằng mỗi sự việc đều do nhân duyên mà thành, nó c̣n nhấn mạnh đến ư niệm vô ngă. Ví dụ một cây gỗ tùy theo một số nhân duyên ( trong đó có nhu cầu của giới tiêu thụ, những nhu cầu này lại tùy thuộc một số điều kiện khác liên miên bất tận như tŕnh độ giáo dục, hưởng thụ nhà cao cửa rộng) mà cây gỗ đó khi được tạo thành cái cửa, một số nhân duyên khác kết hợp th́ thành cuộn giấy. Đó là ư nghĩa của câu : Nhất thiết Pháp, nhân duyên sinh (tất cả các Pháp đều do nhân duyên mà sinh ra), và của câu : Ly nhân duyên biệt vô ngă (rời bỏ nhân duyên ra, không c̣n có ǵ gọi là ngă cả).

3/ Nghiệp lực.

Cái nối liền Nhân với Quả, cái sức tiềm tàng do Nhân phát ra để rồi sinh ra Quả, được gọi là Nghiệp Lực. Có Nhân mà Quả có khi không sinh ra, như chúng ta đă biết. Nhưng trái với Quả, Nghiệp Lực bao giờ cũng phát động một khi Nhân đă có. Thế cho nên, trong giáo lư Nhân Quả, cái quan trọng cần chú ư không phải là Quả mà là Nghiệp Lực. Và ta sẽ thấy Nghiệp Lực có một vai tṛ hết sức quan trọng trong đời sống của con người, và trong lịch tŕnh cấu tạo, hoạt động và di chuyển Nghiệp Lực từ kiếp này sang kiếp khác.

b. Của con người nói riêng.

1/ Con người cũng như vạn pháp, vừa là quả của một số nhân duyên (tổ tiên, cha mẹ, gia đ́nh, xă hội, v . v . ), vừa tạo nhân, và những nhân ấy tất nhiên phát ra nghiệp lực, rồi sẽ sinh ra quả nếu duyên đầy đủ. Những nhân con người tạo ra là hành vi, lời nói, ư nghĩ. Ví dụ chăm chỉ tằn tiện th́ sẽ giầu có, lười biếng, hoang phí th́ sẽ đói rách, nói tốt cho người th́ sẽ gây được cảm t́nh, c̣n nói láo, nói dối, nói xấu cho người th́ sẽ gây ra ác cảm. Trong ba nhân đó, ư nghĩ quan trọng hơn cả. Phật giáo luận về thiện ác đều căn cứ vào chỗ tâm địa phát ra, chứ ít chú trọng tới sự tướng của việc làm. Nếu v́ lợi ích cho người mà đánh mắng, th́ hành vi ấy là hành vi thiện (ví dụ cha mẹ đánh mắng con để dạy dỗ). Nếu v́ muốn làm nhục người v́ thù oán, th́ đó là hành vi ác. Trái lại, xu nịnh, nói ngọt, tưởng như hành vi thiện, nhưng để cầu lợi, hoặc xúi bẩy, th́ là hành vi ác.

Hơn thế nữa, chỉ có ư niệm thiện hay ác trong trí óc, không thực hiện bằng hành vi hay lời nói, cũng đủ gây nghiệp lực tốt hay xấu. Ví dụ ḿnh thấy vợ bạn đẹp, nẩy ra tà tâm ngoại t́nh, tuy không chiếm đoạt hoặc ve văn, nhưng cũng đă là có tội rồi, cũng đă gây nghiệp xấu rồi. Phép tu hành của nhà Phật là một tà niệm phát sinh, th́ phải diệt nó liền.

2/ Nghiệp lực do nhân phát sinh có hai loại : cộng nghiệp là toàn thể nghiệp của mỗi loại chúng sinh, và tự nghiệp là nghiệp riêng của mỗi cá nhân.

Có cộng nghiệp th́ có sự hưởng thụ chung đồng ưu cộng lạc . Có tự nghiệp th́ có sự hưởng thụ riêng, mỗi người một phận. Ví dụ trong một nước dân chủ th́ toàn dân được hưởng những quyền lợi căn bản của con người, nhưng vẫn có người sướng, người khổ. Trong một nước chuyên chế độc tài cũng vậy, toàn dân bị áp bức nói chung, nhưng vẫn có người sướng, người khổ.

3/ Lư thuyết cộng nghiệp của nhà Phật không giới hạn ở các định chế như gia đ́nh, xă hội, nó mở rộng ra tới vũ trụ. Phật giáo không cho rằng vũ trụ do một vị Thượng Đế tạo ra, mà chính những cộng nghiệp của chúng sinh đă tạo ra vũ trụ. Thế giới Ta Bà này là thế giới của chúng sinh lẫn lộn vừa thiện vừa ác. Địa ngục là thế giới của những chúng sinh tội lỗi. Và Cực Lạc thế giới là do nghiệp lực của chư Phật tạo ra, sẽ đón tiếp những chúng sinh ở cơi Ta Bà này đă cố gắng làm lành tránh dữ.

Phải thành thực nhận rằng giáo lư này táo bạo quá, bất cứ ai có chút hiểu biết khoa học đều không thể chấp nhận được, nó c̣n khó chấp nhận hơn cả giáo lư Gia Tô giáo cho rằng Thượng Đế tạo ra vũ trụ. Ta phải gạt bỏ nghĩa đen của nó đi, và cố gắng t́m hiểu nghĩa thực. Theo ư tôi, nó không có nghĩa rằng nghiệp lực của chúng sinh tạo ra vũ trụ (dưới đây Đại thừa sẽ cho chúng ta một giải đáp thỏa đáng hơn), mà chỉ có nghĩa rằng nghiệp lực tạo ra vũ trụ theo như cách chúng ta nhận thức nó (tel qu'il nous apparait), với hoàn cảnh cây cỏ núi sông, thiện ác, sướng khổ mà chúng ta quen biết. Nếu hiểu theo nghĩa đó, th́ chúng ta thấy ngay rằng giáo lư trên trở nên một chân lư hiển nhiên. Vũ trụ trong đó chúng ta đang sống, có sơn hà đại địa, có ánh sáng, có âm thanh, có 3 kích thước trong không gian, có thời gian trôi theo một chiều, v . v . Nhưng đối với một loại chúng sinh khác, có những giác quan khác hẳn chúng ta (v́ nghiệp lực của họ khác), rất có thể họ coi vũ trụ này là một biển ba động, không cây cỏ núi sông, một không gian có 4, 5 kích thước, một thời gian trong đó hiện tại, quá khứ và vị lai hợp nhất thành một hiện tại thường hằng, v . v . Tại sao lại không thể được ? Cái vũ trụ quái đản đó vẫn là vũ trụ này, nhưng một loại chúng sinh khác, có cộng nghiệp khác, nên có giác quan khác, nên có nhận thức khác với chúng ta, chỉ có thế thôi (Đặc biệt các vị Bồ Tát có phép thần thông, mắt phàm chúng ta không thấy nổi, nhưng các ngài vẫn sống chung quanh chúng ta, kiểm soát hành vi và cứu độ những kẻ có thiện chí).

4/ Nghiệp lực không bị giới hạn bởi thời gian. Trong giai đoạn sinh mệnh hiện tại, cá nhân chịu quả báo của những nghiệp ở trong kiếp này (hiện nghiệp) hoặc đă tạo ra trong kiếp trước (túc nghiệp). Và trong kiếp này ta đang tạo nghiệp mới, những nghiệp này có thể chín trong kiếp, này hoặc đến kiếp sau mới chín.

Như vậy, nghiệp bao trùm cả quá khứ, hiện tại và vị lai. Đây là một điểm cần đặc biệt chú ư. Giáo lư Nghiệp Báo của đạo Phật không phải là thuyết Tiền Định một cách máy móc, không cho rằng cuộc đời mỗi người hoàn toàn do Định Mệnh an bài, người thiện kiếp trước th́ kiếp này cứ khoanh tay cũng được hưởng phước, kẻ ác kiếp trước th́ kiếp này cố gắng đến đâu cũng phải khổ sở. Trái lại, Phật giáo cho rằng tuy ta chịu nghiệp của kiếp trước - v́ nhân đă gieo rồi - nhưng ta có thể sửa đổi nó một phần nào bằng nghiệp ở kiếp này. Cũng ví như người gieo hạt xấu vào mảnh đất xấu, đáng lẽ thâu hoạch rất ít, nhưng nếu chịu chăm chỉ tát nước rắc phân, th́ có thể số thu hoạch sẽ khả quan hơn.

c. Thập nhị nhân duyên.

1/ Bây giờ chúng ta xét đến lịch tŕnh hoạt động và cấu tạo của nghiệp lực trong chúng sinh hữu t́nh. Về vấn đề này, nhà Phật đưa ra thuyết Thập Nhị Nhân Duyên, gồm có :

1. Vô minh 2. Hành 3. Thức 4. Danh sắc
5. Lục nhập 6. 7.Thọ 8. Ái
9. Thủ 10. Hữu 11. Sinh 12. Lăo tử.

Chúng ta có thể nghiên cứu quá tŕnh của Thập Nhị Nhân Duyên bằng cách đi xuôi từ Vô minh xuống tới Lăo tử, hay đi ngược từ Lăo tử lên tới Vô minh. Hai cách đó tương đương với nhau.

Dưới đây xin bắt đầu bằng Lăo tử, tức là sự già và chết, là biểu tượng của khổ đau. Nhưng tại sao con người lại phải khổ đau, phải già và chết ? V́ con người đă được sinh ra (Sinh). Mà sở dĩ con người sinh ra là v́ sức mạnh của nghiệp báo đă đưa tới sự hiện hữu (Hữu) của sinh mệnh. Nguyên do của Hữu là sự vương vấn (Thủ) vào nghiệp báo, bởi v́ nếu không vương vào nghiệp, không tạo nên nghiệp th́ sẽ không cần trả nghiệp. Mà sở dĩ kẹt vào nghiệp bởi v́ ta có đam mê, có ước ao, có ái dục (Ái). Nhưng tại sao có Ái ? Bởi v́ có cảm giác (Thọ) gây nên do sự tiếp xúc (Xúc) giữa các cơ quan và đối tượng của chúng là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp (Lục nhập). Sở dĩ có Lục nhập là v́ có sự hiện hữu của tâm lư và vật lư, vật chất và tinh thần (Danh sắc), tức là năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) phát hiện từ những chủng tử nằm trong A Lại Da Thức(Thức). V́ có Thức nên có Hành tức là những tác động vô thức của ư chí sinh tồn theo hướng vô minh. Mà chính v́ sự thiếu trí tuệ mà có những tác động vô thức đó, nghĩa là v́ Vô minh nên mới có Hành.

2/ Sự diễn bầy về liên hệ Thập Nhị Nhân Duyên như trên là một sự đơn giản hóa. Tuy nhiên, nếu ta không quên rằng mỗi một nhân duyên trong số 12 nhân duyên không thể có một bản chất và một sự hiện hữu riêng biệt và độc lập, th́ ta sẽ có thể tránh được mọi ngộ nhận. Các nhân duyên không chỉ nối tiếp nhau thành một dọc dài mà phối hợp với nhau như những khoanh tṛn tương giao. Ví dụ Vô minh tuy gọi là sinh ra Hành, nhưng thực ra Hành có trong Vô minh, và Hành cũng là Vô minh. Các nhân duyên khác cũng vậy, đều có tính chất Vô minh cả. Vậy th́ tách rời Vô minh với những nhân duyên khác đă là không đúng, huống hồ cho rằng Vô minh đứng đầu một hàng dọc nhân quả nối tiếp nhau th́ lại càng không đúng. Vô minh là một nhân duyên, để đứng đầu Thập Nhị Nhân Duyên, nhưng không có nghĩa nó là nguyên nhân đầu tiên. Ư niệm về nguyên nhân đầu tiên chống ngay lại ư niệm nhân duyên, là một giáo lư duyên sinh theo đó mỗi hiện tượng đồng thời là nhân và là quả.

3/ Dưới sự am hiểu đó th́ ta có thể h́nh dung lịch tŕnh hoạt động và cấu tạo của nghiệp lực trong chuỗi dài vô tận các kiếp quá khứ, hiện tại và vị lai như sau :

Trong quá khứ, Vô minh và Hành là nhân sinh ra quả trong kiếp hiện tại, là 10 nhân duyên kia từ Thức cho đến Sinh rồi Lăo tử.

Trong kiếp hiện tại, 10 nhân duyên ấy lại là nhân sinh ra quả là Vô minh và Hành cho kiếp vị lai.

Và ṿng luẩn quẩn đó cứ tiếp diễn măi măi từ kiếp nọ sang kiếp kia, trừ phi tu hành để phá vỡ nó.

III. Bản Thể Luận.

Như trên kia đă nói, giáo lư đạo Phật chỉ nhằm mục đích duy nhất là giải thoát chúng sinh khỏi phiền năo và luân hồi. Đức Phật đă nói : Cũng như nước trong biển cả chỉ có một vị mặn mà thôi, mùi vị duy nhất của Chánh Pháp là sự giải thoát. Do đó ngài ít đả động đến những vấn đề siêu h́nh mà ngài cho là vô ích, như Vũ trụ hữu hạn hay vô hạn ? Linh hồn bất diệt hay phù du ? Về sau, để đối phó với các ngoại đạo, các môn đồ mới phát triển một số giáo huấn siêu đẳng của ngài ghi trong kinh Bát Nhă, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm thành một hệ thống Vũ trụ quan, một hệ thống Bản thể luận, nghĩa là đi t́m cái bản thể nằm dưới các hiện tượng vô thường và vô ngă, và lư Nhân Duyên Quả Báo.

1/ Bản Thể là Chân Không.

Trước hết ta hăy tự hỏi : Thế giới và vạn sự, vạn vật trong đó (theo danh từ Phật giáo gọi là pháp giới) là thực hay hư ? Kinh Kim Cang dạy : Các pháp vốn không thực, không hư. Phàm phu chúng ta có quyền sửng sốt trước ư kiến bí hiểm đó, có vẻ là vu vơ, nhưng khoa học hiện đại cũng gần tiến đến nhận xét đó khi nghiên cứu các cực vi gọi là Quarks, là thành phần tối hậu của nguyên tử. Chúng biến hiện như ma quái, vừa là hạt vật chất (corpuscule), vừa là ba động (onde), đến nỗi nhà bác học Eddington đă thở dài than rằng : Cái vũ trụ này h́nh như không phải là một bộ máy đồng hồ, mà nó giống như một Tâm tưởng lớn th́ đúng hơn.

Như vậy, Phật giáo Đại thừa quan niệm rằng tất cả các hiện tượng mà ta thường tưởng là có, thật ra là không, nhưng cũng đồng thời công nhận rằng dưới những lớp hiện tượng muôn h́nh vạn trạng, luôn luôn sinh diệt có một cái ǵ bất biến hằng c̣n. Mà cái bất biến hằng c̣n đó không thể dùng một danh từ nào thích hợp để diễn tả được, ngoài chữ KHÔNG ra. Nhưng cái Không đó không phải là cái không trống rổng, hư vô, chỉ toàn phủ-định-tính, mà là cái không linh động, cái không Diệu Hữu. Tuy cái không đó phủ định ư nghĩa hiện tượng, nhưng một khi đă đạt đến diệu hữu th́ lại từ căn để của hiện tượng làm cho ư nghĩa hiện tượng sống lại. Đó là thuyết được mệnh danh là Chân Không Diệu Hữu, là thực tướng của các Pháp, và đă được đức Thế Tôn giải thích như sau trong Thắng Thiên Vương Bát Nhă : Chân Như của vạn pháp vượt ra ngoài văn tự, xa ĺa ṿng ngôn ngữ, tất cả lời nói không thể nào miêu tả được ; ngoài cả mọi sự hí luận, tuyệt hết mọi sự phân biệt, không có thử, không có bỉ ; xa ĺa mọi h́nh tướng, t́m xét cũng không được, không thể dùng thức mà biết được ; nó trụ ở chỗ vô sở trụ, vắng lặng, trong sáng ; không có ngă, t́m không thể được, không lấy không bỏ. Nó là đệ nhất tính thường bất biến dù có Phật ra đời hay không cái tính đó vẫn thế.

(Theo chúng tôi thiển nghĩ, th́ đó là cái mà vài triết gia Âu Tây tạm gọi là Elan vital, một khi nó đă tác động th́ tạo ra vũ trụ).

2. Từ Chân Không biến thành Diệu Hữu.

Đă biết rằng pháp giới là Chân Không Diệu Hữu, bây giờ chúng ta tự hỏi cái ǵ đă làm cho Chân Không biến thành Diệu Hữu ? Câu hỏi này được trả lời bằng lư Duy Tâm Sở Hiện, có thể thâu gồm trong mấy chữ : Chân Tâm, Bất Giác, Động Niệm, Quang Minh, Biến Hiện, Tương ng.

Do sự xuy động của những ngọn gió Vô Minh Bất Giác, th́ biển Tâm động niệm, vọng động và nổi sóng, biến thành muôn vạn những đợt sóng nhấp nhô chập chùng, mỗi đợt tự ĺa ḿnh ra khỏi biển cả. Động niệm ấy cũng làm phát xuất vô lượng quang minh cùng quang minh quyến thuộc, những quang minh này kết tập lại, biến hiện thành những thân căn và khí thế giới, và thân căn cùng khí thế giới bao giờ cũng tương ứng nghiệp lực của sự khởi niệm. Do đó, căn và cảnh không thể ĺa nhau được, v́ đều là sự biến hiện của cái Diệu Tâm nhiệm mầu mà thôi.

Vậy pháp giới chỉ là do tự tâm biến hiện, chỉ là một trường biến hiện (champ de manifestation như từ trường champ magnétique), nó liên miên bất tuyệt Tương Tợ Tương Tục (produisant des images qui s'apparentent et se suivent sans interruption) của Tâm chuyển thành Thức. Rồi trong cái màn ảo ảnh liên miên và bao la đó, vọng thức của con người cắt xén lấy một số ảnh tượng có vẻ tương tợ tương tục. V́ chúng biến hiện tương tợ tương tục, nên chúng h́nh như có khoác một h́nh tướng vọng thức, con người bèn chộp lấy h́nh tướng đó, tạo thành một ư niệm rồi khoác cho nó một tên gọi (danh tướng), ôm khư khư lấy nó, nhất định coi nó là có, cho nó là vật tồn tại độc lập và riêng biệt với ḿnh. Trong khi thực sự, chúng chỉ là những ảnh tượng biến hiện của tâm thức ḿnh mà thôi. Để cho dễ hiểu, có thể ví những tướng trong pháp giới với những h́nh ảnh ta thấy trên màn bạc. Ta có cảm tưởng rằng có nhân vật, có núi sông cây cỏ xuất hiện, nhưng thật ra chỉ là những h́nh ảnh do máy camera chiếu ra. Cũng vậy, những nhân vật , núi sông cây cỏ mà chúng ta tưởng là có thật, chỉ là h́nh ảnh do tâm thức ta chiếu ra mà thôi. Và sở dĩ quư đạo hữu và tôi đều thấy người là người, cây là cây, chỉ v́ chúng ta có cộng nghiệp giống nhau. Nhưng một con chó, hoặc một vị Bồ Tát sẽ thấy khác, con chó không thấy quyển sách là quyển sách, và vị Bồ Tát thấy được núi Tu Di mà chúng ta không thấy. V́ tâm thức con chó là một máy camera khác, và tâm thức vị Bồ Tát cũng lại là một máy camera khác.

Do đó, xét đến cùng, th́ mọi sự vật chỉ là những ư niệm, những ngôn từ danh tướng của vọng thức của chúng sinh. Vi trần chẳng phải là vi trần, chỉ là một ư niệm về vi trần, nên tạm gọi là vi trần thôi. Thế giới chẳng phải là thế giới, chỉ là ư niệm về thế giới, nên tạm gọi là thế giới.

3. Quá tŕnh Hiện Tượng Hóa có nhiều bậc.

Ta hiểu rằng sự chuyển biến từ Chân Không thành Diệu Hữu hoàn toàn do tâm vọng tưởng. Quá tŕnh chuyển biến đó (từ bản thể noumène đến hiện tượng phénomène) chuyển dần dần từ vi tế tới thô kệch. Lúc đầu th́ Tâm vô minh mới chuyển thành một phần gọi là Năng Hiện, và một phần gọi là Sở Hiện, hăy c̣n vi tế trong tâm thức một số Bồ Tát nhỏ từ đệ bát địa trở xuống. Nhưng đến chúng sinh th́ chuyển dần dần từ chỗ vi tế vô h́nh tới chỗ thô kệch hữu h́nh.

Và mỗi chúng sinh trở thành một lăng kính ảnh hiện. V́ nó là một cơn lốc vô minh, nên có ảnh hiện vũ trụ, ảnh hiện thân căn của ḿnh, ảnh hiện nên cái ảo giác là có ngă. Chấp là có ngă, rồi chấp là có pháp, có vật, có hiện tượng bên ngoài. Mực độ ảnh hiện của mỗi chúng sinh, của mỗi loài chúng sinh th́ có nhiều khác biệt, nhưng mỗi mỗi đều có ảnh hiện. Và tùy theo nghiệp lực, mỗi chúng sinh đều ảnh hiện vũ trụ thành một ảnh tượng riêng biệt của ḿnh. Ảnh tượng về không gian, thời gian, về các hiện tượng như núi sông cây cỏ cũng khác biệt. Chánh báo, y báo đều khác biệt. Tóm lại, tất cả mọi cảnh giới, từ thô kệch đến vi diệu, từ loại côn trùng, chó mèo, con người, đến Bồ Tát, Phật, đều như huyễn, đều chỉ là biến hiện, đều không thật, không hư, v́ đều là vọng hiện do nghiệp lực chiêu cảm. Nhưng chư Phật và đại Bồ Tát đă hết nghiệp lực th́ sẽ chuyển được tất cả Vọng ấy, sẽ thấy toàn Vọng tức là Chân, và mọi pháp, mọi cảnh giới vốn như như, bản lai rỗng lặng.

Nói một cách khác, tuy Phật giáo cho biết là danh lợi, liên hệ gia đ́nh, kể cả sinh tử đại sự, tất cả đều như huyễn, nhưng lại dạy thêm rằng Vọng là biểu hiện của Chân, và Chân là căn bản của Vọng. Ví dụ không có nước th́ không thể có sóng, và không thấy sóng th́ cũng không thể biết có nước. Đây là một giáo lư vô cùng quan trọng của đạo Phật : là không nên v́ nhu cầu sanh sống mà sao lăng cứu cánh giải thoát, cũng không nên v́ cứu cánh giải thoát mà sao lăng sự sinh hoạt hàng ngày, sao lăng bổn phận làm người công dân, làm người con, làm người chồng, làm người cha (hai nhiệm vụ cuối này không áp dụng cho tăng ni để họ dễ dàng hơn trong công việc hoằng dương Phật pháp).

CÁC PHÁP MÔN.

1- SO SÁNH THIỀN VÀ TỊNH ĐỘ.

Tuy có rất nhiều pháp môn tu hành, nhưng tựu trung chỉ có hai xu hướng h́nh như trái ngược nhau, là xu hướng dựa vào tự lực và xu hướng dựa vào tha lực. Tiêu biểu cho hai xu hướng đó, được phổ biến rộng răi nhất là Thiền tông và Tịnh độ tông. Nhiều người phân vân không biết nên lựa chọn bên nào, v́ khi đọc các sách giảng về Thiền tông và Tịnh độ tông, th́ thường thấy trong đó những ư kiến thiên lệch, bên nào cũng dành phần hơn về ḿnh và chê đối phương là kém về phương diện này hay phương diện nọ.

Muốn giải quyết phân vân đó, ta cần phải tự ḿnh t́m hiểu ba vấn đề :

1. Lập trường

3. Kết quả

I. Vấn đề thứ nhất h́nh như không có ǵ cần cân nhắc. Trên lập trường hiển nhiên Thiền tông là chính thắng, v́ nó chủ trương trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật. Tâm ḿnh chính là Phật rồi, việc ǵ phải cầu Phật ở ngoài ? Thế cho nên, đối với câu hỏi "Phật là ǵ ?", các thiền sư đă có những câu trả lời rất ngổ ngáo như sau :

Phật hả ? ở trong chùa ấy,
Bằng đất, thếp vàng
Đó không phải là Phật,
Đừng nói chuyện tào lao.

C̣n Tịnh độ tông, ỷ lại vào sự cứu độ của đức Phật, trên nguyên tắc th́ không đúng, nhưng trên thực tế th́ lầm tưởng rằng có đức Phật giúp đỡ ḿnh cũng không hại ǵ (với điều kiện sẽ tŕnh bầy sau), lại có lợi là đằng khác. Thật vậy, người tu Tịnh độ nghĩ rằng : Ḿnh vốn là kẻ phàm phu, đầy nghiệp chướng, khó ḷng tự giải thoát được. Nhưng có đức Phật từ bi, Ngài sẵn ḷng cứu độ ta, tại sao không cầu khẩn Ngài ? Và sự tin tưởng này, mặc dầu không đúng trên cương vị khách quan, nhưng lại rất đúng trên cương vị chủ quan, v́ sẽ giúp đỡ hắn vững tâm tiến trên đường đạo. Ví dụ có người sợ ma, ban đêm không dám đi qua những cánh đồng vắng. Một người bạn hắn khoe rằng mới xin được của một ông đạo nổi tiếng trên Thất Sơn một lá bùa hộ mạng rất linh nghiệm, đeo nó vào người th́ không tà ma nào dám đến gần. Anh sợ ma bèn năn nỉ xin lại, và anh được anh bạn khẳng khái tặng cho. Thực ra, lá bùa đó chỉ là một tờ giấy bản trên đó chính anh bạn đă vẽ những đường ngoằn ngoèo để làm ra vẻ bí hiểm. Và tṛ chơi nghịch ngợm của anh bạn đă đem lại kết quả kỳ diệu : từ khi đeo "lá bùa" đó trong người, anh sợ ma trở thành người bạo dạn nhất trong làng !

Trên đây chúng tôi đă dè dặt nói rằng sự lầm tin đức Phật giúp đỡ ḿnh tu thành chánh quả không có hại ǵ, nhưng với một điều kiện. Là sự tin tưởng đó phải chánh đạo, giúp đỡ ḿnh tu tâm sửa tánh, làm điều thiện, bỏ điều ác, chứ không phải giúp đỡ ḿnh thành công trong những mưu đồ giầu sang, ích kỷ hại nhân. Tin rằng thực có Bồ Tát Quán Thế Âm cứu giúp người lâm nạn th́ được, và thực sự người có đức tin đủ mạnh sẽ được thoát khỏi nạn. Tin rằng thực có Phật A Di Đà sẽ đến đón người lành về Tây Phương Cực Lạc thế giới th́ được, và thực sự người lành lúc lâm chung sẽ thấy linh hồn ḿnh được siêu sinh Tịnh độ. Nhưng tin rằng có đức Phật hay Bồ Tát sẽ giúp ḿnh buôn may bán đắt với những mánh khóe giảo hoạt, hoặc thăng quan tiến chức bằng những phương tiện bất chánh, th́ chỉ là sự tin tưởng quàng xiên, tiết mạn thần linh.

II. Bây giờ xin bàn sang vấn đề so sánh các phương pháp tu hành của Thiền tông và Tịnh Độ tông. Là một phật tử tu tại gia, chúng tôi không dám lạm bàn đến chương tŕnh huấn luyện trong các Thiền viện và Niệm Phật đường. Nhưng đại khái chúng tôi cũng nhận thấy sự khác biệt sau đây :

Thiền tông chủ trương lấy lư luận thông thường (cái mà nay ta gọi là những phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn dịch và qui nạp : analyse, synthèse, déduction et induction) để t́m hiểu các giáo lư đạo Phật. Rồi đến khi những giáo lư cao siêu ngoài tầm hiểu biết của lư luận thông thường, như Bản Thể Chân Như trong mỗi chúng sanh, th́ phải dùng trực giác (intuition) để chứng nghiệm rằng Tâm tức Phật, Phật tức Tâm. Nói tóm lại, phương pháp Thiền tông chú trọng đến sự suy nghĩ, hoặc bằng hữu-ư-thức (conscious mind) luôn luôn chủ động, tích cực, hoặc bằng tiềm thức (subconscious mind), để dần dần vứt bỏ những thành kiến cũ, tự tạo cho ḿnh một nhân sinh quan và vũ trụ quan.

Với chủ trương gột rửa lần lần vọng tâm để đạt tới Chơn Tâm, phép tu Thiền tông gồm 2 bước chính là Định và Tuệ. Định là cột các vọng tưởng lại, không cho chúng tung hoành nữa, tức là điều tâm. Nhưng muốn điều tâm, trước hết phải điều thân và điều tức. Điều thân là giữ thân bất động cố gắng đừng để cho nó thọ những thức của giác quan nữa : không nh́n cái ǵ cả, không nghe thấy ǵ nữa, v . v . Tư thế tốt nhất cho việc điều thân là ngồi kiết già hoặc bán già. Điều tức là điều ḥa hô hấp, thở thật nhẹ nhàng và chậm chạp, mục đích là để cho bộ óc nhận được ít dưỡng khí, có thể bớt lăng xăng loạn tưởng. Bộ óc nhờ đó đổi mới, hay nói theo danh từ cách mạng, là làm một cuộc "lột xác" hoàn toàn.

Bước thứ hai là Tuệ. Định chuẩn bị cho việc khai Tuệ, cũng ví như mặt nước hồ có im lặng, không bị gợn sóng, th́ mặt trăng mới có thể soi h́nh lên rơ ràng. Mặc dầu vậy, cũng phải mất công vén mây mù che lấp mặt trăng. Vén đám mây mù, tức là gột bỏ những ư tưởng điên đảo, lấy giả làm chân, đă từ lâu đời nhiều kiếp che lấp Chơn Tâm. Đó là công việc Khai Tuệ đ̣i hỏi người tu Thiền phải suy nghĩ, luôn luôn chủ động, tích cực.

Trái lại, người tu theo Tịnh Độ tông có một thái độ thụ động hơn, chỉ việc tụng kinh niệm Phật là đủ. Nói rằng thụ động th́ không đúng hẳn, v́ việc tụng kinh niệm Phật cũng đ̣i hỏi một ư chí kiên cường để tín, nguyện và hành. Điều mà chúng tôi muốn nói là người tu theo Tịnh Độ tông chỉ cần chăm chỉ tụng kinh niệm Phật đều đều mỗi ngày, chứ không cần phải nát óc suy nghĩ như người tu theo Thiền tông.

Nói tóm lại, trong khi phép tu Thiền tông đ̣i hỏi hai công phu rất chật vật là Định và Tuệ, th́ phép tu Tịnh Độ tông thay thế bằng một công phu có vẻ nhẹ nhàng hơn là tụng kinh niệm Phật. Lẽ tự nhiên, người tu Tịnh Độ cũng nhiều khi thực hành những công phu điều thân, điều tức và điều tâm, nhưng điểm đặc biệt là ít khi làm công phu suy nghĩ như bên Thiền tông.

III. Kết quả sẽ như thế nào ? Theo sự so sánh phương pháp của hai bên vừa tŕnh bầy, th́ ta có thể nghĩ rằng tất nhiên Thiền tông phải có kết quả, nếu không nhanh chóng hơn, th́ cũng chắc chắn hơn là Tịnh Độ tông. Thật vậy, một bên đ̣i hỏi công phu suy nghĩ rất chật vật, một bên th́ nhàn hạ hơn nhiều, làm sao lại có thể có kết quả bằng nhau được ? Cũng như hai sinh viên, một người cặm cụi học bài và suy nghĩ, một người chỉ ngồi nghe thầy giảng, tất nhiên người thứ nhất phải thành công hơn chứ ?

Lư luận đó rất đúng, nhưng chỉ lư luận thôi. Ta chớ nên quên rằng đối với các vấn đề tâm lư, lư luận nhiều khi chẳng ăn thua ǵ cả. Vậy tốt hơn là chúng ta thử theo dơi, trên thực tế, xem người tu mỗi cách đạt tới hai mục đích của việc tu hành như thế nào ?

Mục đích thứ nhất là thắng được mọi phiền năo ngay trong kiếp này. Người tu thiền tông đạt được mục đích đó sau khi hiểu rơ chúng chỉ là kết quả của cái Chấp Ngă và những cái bám vào ta như tiền tài, danh vọng, t́nh yêu v . v . , rằng chúng đều vô thường, vô ngă, không có thực chất, không phải là thực ta. Vậy sự đắc thất những cái đó chẳng có ǵ quan trọng cả, chỉ v́ ta mê muội nên mới quan-trọng-hóa chúng. Cũng ví như khi đang xem tuồng hát, ta lo sợ cho vai trung thần bị tai họa, và tức giận khi thấy vai nịnh thần lộng quyền, nhưng khi vở tuồng hạ màn, ta biết rằng những cảnh đó chỉ là cảnh giả. Hiểu rơ như thế rồi, nghĩa là phá được cái Chấp Ngă, th́ tâm luôn luôn được an lạc, không c̣n bị ô nhiễm bởi những thay đổi hoàn cảnh nữa.

Người tu Tịnh Độ tông có thể không có sự hiểu biết rành rọt như thế. Nhưng kỳ diệu hơn, hắn chỉ nghĩ đến đức Phật là tự nhiên mọi phiền năo đều tan biến. Thật vậy, các tâm sở vui buồn sướng khổ không thể cùng trong một lúc ngự trị trong tâm thức. Khi ta niệm Quán Thế Âm Bồ Tát th́, đúng như trong phẩm Phổ Môn kinh Liên Hoa đă chỉ rơ, mọi tư tưởng lo sợ, buồn rầu (được mô tả là quỷ La Sát, rồng, cá, hỏa hoạn, thủy nạn, gông cùm, v . v .) bị xua đuổi trước nụ cười từ bi vô lượng của Ngài, như người mẹ âu yếm che chở cho con. Khi ta tụng kinh A Di Đà, th́ trước mắt ta hiện lên h́nh ảnh huy hoàng rực rỡ của Cực Lạc thế giới, có lâu đài xây bằng vàng bạc, lưu ly, san hô, mă năo, có ao thất bảo, nước bát công đức, hoa Mạn Đà La rơi xuống như mưa, các thứ chim đẹp ca hót vang lừng, v . v . Như vậy, có thể nói rằng mỗi phút tụng kinh niệm Phật là một phút được sống thực sự trong tiên cảnh rồi. Và ta hiểu rằng có nhiều bà mê đồng bóng, tuy là tà đạo, nhưng cũng đạt tới tiên cảnh đó. Đồng bóng là tà đạo, v́ nhờ vào tiếng hát cung đàn mê hoặc giác quan, c̣n tu Tịnh Độ là chánh đạo v́ nhờ vào h́nh ảnh đức Phật và Tịnh Độ xua đuổi ác tưởng, đem lại thiện tưởng. Cả hai hành vi : ngồi đồng và niệm Phật, mặc dầu chánh tà khác nhau, đều có kết quả tương tự v́ cùng dựa trên một sự kiện tâm lư mà chúng tôi vừa nhắc tới ở trên :"Trong một lúc không thể có hai tâm sở cùng ngự trị". Tu theo Tịnh Độ tông, là luôn luôn để cho tâm trí ḿnh chỉ có những thiện tưởng, không c̣n chỗ thừa cho các ác tưởng xen lẫn vào nữa. Cũng ví như sự kiện vật lư sau đây : vào mùa đông tháng rét, nếu ta đốt ḷ sưởi trong pḥng, th́ hơi nóng tràn ngập, không c̣n chỗ cho hơi lạnh len lỏi vào nữa.

Vậy về mục đích thứ nhất là thắng được mọi phiền năo trong kiếp hiện tại, th́ tu theo pháp môn nào cũng đạt được kết quả tương đương. Miễn là có thành tâm thiện chí, th́ xem rộng các kinh sách và khổ công suy nghĩ, hay chỉ chăm chú niệm một câu "Nam Mô A Di Đà Phật" hoặc "Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát" cũng sẽ được thấy ḷng lâng lâng thanh thản.

C̣n mục đích thứ hai của sự tu hành là hy vọng sẽ được giải thoát khỏi luân hồi, hoặc nói cho rộng nghĩa hơn là không những phá được cái Chấp Ngă mà c̣n phá được cả cái Chấp Pháp nữa, hiểu rơ lẽ Sắc Không, ḥa ḿnh với bản thể Chơn như của Vũ Trụ, ra ngoài ṿng cương tỏa của không gian và thời gian, th́ thế nào ? Tu hành có thể biến một phàm nhân đáng lẽ phải măi măi trầm luân trong ṿng sinh tử, thành một siêu nhân đoạt quyền tạo hóa được không ?

"Được", Thiền tông và Tịnh Độ tông đồng thanh trả lời như thế, Thiền tông gọi sự biến đổi kỳ lạ đó là "Ngộ", và Tịnh Độ tông gọi nó là tới cơi Núy Ta Ra Sam Da Tam Bồ Đề, lên ngôi "Bất Thoái".

Muốn có một ư niệm đại khái về sự biến đổi đó có thể thực hiện được không, và như thế nào, xin đưa ra hai ví dụ tương tự lấy trong khoa học :

Ví dụ thứ nhất : thuyết Tương Đối của Einstein đă đem lại cho các khoa học gia một cách nh́n mới về cơ cấu của Vũ Trụ, đă chứng minh rằng năng lượng và vật chất có thể tương hoán, rằng mỗi khối lượng bẻ cong không gian chung quanh nó, rằng thời gian và không gian không phải là những khung bất di bất dịch, trái lại co giăn nếu người quan sát và hiện tượng bị quan sát ở trên những hệ thống chuyển động khác nhau, v . v . Để được kết quả vĩ đại đó, Einstein đă phải thoát ly ra khỏi những tư tưởng của khoa học cổ điển đă được các bậc tiền bối như Newton, Lavoisier , Berthelot, coi là những chơn lư bất di bất dịch của khoa học thực nghiệm.

Cũng vậy, người tu Thiền muốn thành Phật phải thoát ly những kiến thức thông thường do giác quan đem lại, phá cái Chấp Pháp, hiểu rơ lẽ Sắc Không. Cả hai người : nhà tu Thiền tông và Einstein đều đă làm công việc "lột xác", nhưng trong khi Einstein mới chỉ lột xác để nh́n Vũ Trụ giác quan với một con mắt tinh tường hơn, th́ nhà tu Thiền tông đă lột xác để xóa bỏ Vũ Trụ giác quan và nhập vào bản thể Chơn Như của nó.

Ví dụ thứ hai : Nhăn thức và Nhĩ thức của con người không tiếp nhận được những luồng sóng từ điện ngoài một phạm vi rất nhỏ hẹp. Nhưng sau khi chế tạo được các máy truyền thanh và truyền h́nh rung động cùng một tần số với các đài phát thanh và phát h́nh, rồi chế biến những làn sóng từ điện đó thành những làn sóng từ điện khác trong phạm vi thích hợp với giác quan của con người, th́ sự viễn thông đă trở nên một sự kiện rất tầm thường.

Cũng vậy, phàm nhân chúng ta không cảm thông được làn sóng tâm ư của chư Phật mười phương, nên vẫn bị trầm luân trong bể khổ. Trong kinh "Phật thuyết A Di Đà" nói rằng đức Phật A Di Đà hiện đang thuyết pháp, nếu chúng ta không nghe thấy ǵ th́ lỗi tại tâm ta không rung cảm cùng một nhịp với tâm Ngài, chứ có phải tại không có đức Phật A Di Đà hiện đang thuyết pháp đâu ? Và trong Nghi thức tụng niệm, đoạn Quán tưởng, cũng có câu :

Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng,
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn.

chính là nói về việc đó. Phàm nhân không cảm thông nổi, nhưng người chăm chú nghĩ đến đức Phật th́ có thể dần dần thay đổi tần số (fréquence) của làn sóng tâm ư của ḿnh cho nó trùng hợp với tần số của làn sóng tâm ư của đức Phật. Và lúc đó hắn cũng được tương tự như người tu Thiền tông đă đại ngộ. Bởi vậy có kệ rằng :

Tham thiền niệm Phật lư vẫn đồng
Rơ ràng xem kỹ thấy đều không.
Công đến tự nhiên toàn thể hiện
Xuân về như trước trăm hoa hồng.

Kết Luận.

Sau khi đă so sánh Thiền tông và Tịnh Độ tông về ba khía cạnh : lập trường, phương pháp và kết quả, chúng tôi đă đi tới hai kết luận, một tiêu cực, một tích cực.

Kết luận tiêu cực: Vấn đề nêu ra ở đầu bài :"Nên chọn pháp môn nào ?" không thể giải quyết nhất luật cho mọi người. Nó tùy thuộc vào nhiều yếu tố phức tạp như bẩm tính thông minh, giáo dục gia đ́nh, hoàn cảnh xă hội, v . v ., và có thể cả vào những yếu tố huyền bí hơn như nghiệp của tiền kiếp, và phúc duyên của mỗi người. Nhưng dù theo pháp môn nào, điều kiện cần thiết vẫn là đức Tin : tin vào Phật tính có sẵn trong ḿnh hoặc tin vào ḷng từ bi vô lượng của đức Phật.

Kết luận tích cực và bất ngờ : Người tu Tịnh Độ tin ở đức Phật ngoài tâm sẽ cứu độ ḿnh, té ra là được cứu độ bởi chính tâm ḿnh mà không biết. Đúng như bài kệ nêu trên đă xác nhận :

Tham thiền niệm Phật tính vốn đồng ,
mặc dầu h́nh như trái ngược nhau, bởi v́:
Rơ ràng xem kỹ thẩy đều không
.

"Thẩy đều không" nghĩa là muôn pháp trong thế gian, kể cả đức Phật ngoài Tâm, đều chỉ là những biểu thị của tâm (les manifestations du coeur) do tâm hiện tượng hóa mà thành. Người tu Tịnh Độ lúc lâm chung thấy đức Phật A Di Đà hiện ra trước mắt để tiếp dẫn ḿnh về Cực Lạc thế giới, thực ra là thấy tâm ḿnh được vô cùng an lạc, tịch tịnh, sẵn sàng để vào cơi Tịnh Độ không có những khổ, chỉ hưởng những vui. Xin lấy một ví dụ thô sơ để thêm sáng tỏ ư nghĩ trên. Có hai người làm tṛ xiếc đi trên dây căng giữa hai cột, cao vài thước trên mặt đất. Người thứ nhất (dụ cho tín đồ Thiền tông), tin ở sự huấn luyện thành thục của ḿnh, luôn luôn giữ được thăng bằng trên sợi giây, dù cho nó động đậy cách mấy, nên đi trên sợi dây rất vững vàng. Người thứ hai (dụ cho tín đồ Tịnh Độ tông) tin ở tấm lưới căng trên mặt đất, nếu lỡ xẩy chân cũng chẳng hề hấn ǵ, nên mạnh bạo đi lại trên sợi dây cũng rất vững vàng. Thực ra, tấm lưới căng đâu có phải đă khiến cho hắn giữ được thăng bằng trên sợi dây ? Sự thành công này chỉ là kết quả của sự tập luyện thành thục của hắn.

Và, trải qua nhận xét trên, chúng ta lại càng thấy những lời đức Phật dậy bảo, mặc dầu thiên h́nh vạn trạng, có khi h́nh như mâu thuẫn, y nhiên như thị, bất di bất dịch, bởi v́ đều dựa trên một thể chất duy nhất là Chơn Tâm, là bản thể Chơn Như của Vũ Trụ.

2- Phép tu theo Thiền tông.

Phần mở đầu : Tu Thiền là ǵ ?

Tôn chỉ của Thiền tông là : "Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật ". Một câu nói đó gồm đủ cả phương pháp và mục đích của việc tu Thiền.

I. Mục đích : là kiến tánh thành Phật. Ta có thể coi kiến tánh là mục tiêu thứ nhất, mở cửa cho ta vào cơi Niết Bàn và thành Phật, mục đích tối hậu.

A/ Kiến tánh : là t́m hiểu cái chơn tánh, cái bản thể của chính ta và của vạn pháp trong vũ trụ, ẩn dưới những hiện tượng mà nhà Phật gọi là các tướng.

1) Chơn tánh là cái ǵ ? Đó là vấn đề số một của Phật giáo, và có thể nói là của tất cả mọi tôn giáo và triết học, sẽ xin bàn đến ở một đoạn sau. ở đây chỉ xin đưa ra vài thí dụ thô sơ để gợi ư đại khái thế nào là tánh, thế nào là tướng :

- Nước sông, nước hồ, nước biển, nước càfê, nước trà, là tướng; chất nước H2O là tánh.

- Chất nước H2O là tướng; các hạt dương tử, điện tử, trung ḥa tử trong những nguyên tử khinh khí, dưỡng khí, v.v. là tánh.

- Ánh sáng trắng, ánh sáng vàng, ánh sáng xanh, ánh sáng đỏ là là tướng; những luồng sóng từ điện là tánh.

- Mặt, mũi, lục phủ ngũ tạng,các t́nh cảm và tư tưởng là tướng; cái sức sống giữ cho thân và tâm được hoạt động là tánh.

Khoa học càng tiến bộ bao nhiêu, càng thấy những tướng muôn h́nh vạn trạng dần dần thu lại một số ít tướng đơn giản hơn, nhưng cái tánh hoặc bản thể th́ vẫn ngoài tầm hiểu biết của loài người.

2)Tại sao vậy ? Một mặt khoa học cho ta biết rằng con người chưa phải là tŕnh độ tối hậu của sự tiến hóa vô cùng tận của các loài sinh vật. Tuy loài người ở tŕnh độ tiến hóa cao nhất, nhưng vẫn chưa hoàn toàn. Thân ta chỉ có ngũ quan để nh́n, nghe, ngửi, nếm và sờ mó, và khả năng ngũ quan đó cũng rất hạn chế, ví dụ tai ta chỉ nhận thức được vài âm giai (gammes), và mắt ta cũng chỉ nhận thức được vài phần rất nhỏ của các luồng sóng từ điện. Cái trí óc của ta cũng vậy, cũng bị hạn lượng, ví dụ chỉ có thể quan niệm không gian có 3 kích thước và thời gian trôi theo một chiều, không thể quan niệm không gian có 4, 5 kích thước và thời gian đi ngược chiều hoặc đứng im một chỗ trong đó chỉ có hiện tại, không có quá khứ lẫn tương lai.

Một mặt khác, Phật giáo cắt nghĩa rằng sở dĩ thân tâm ta khiếm khuyết như vậy, là v́ nó đă bị nhào nặn (conditioned) bởi nghiệp từ muôn ngàn kiếp trước. Mỗi loại sinh vật có một loại cộng nghiệp khác nhau, do đó mà có những giác quan và tâm thức khác nhau. Ví dụ con dơi có bộ máy radar để bay ban đêm mà không bị vấp, và có những loài vật sống sâu dưới đáy biển hoặc trong ḷng đất không có thị giác; đối với loài người th́ cái bàn là một đồ đạc bầy trong nhà mà tượng Venus de Milo là tác phẩm nghệ thuật tuyệt diệu, c̣n đối với con mọt gỗ th́ cái bàn là một kho lương thực, và đối với con kiến th́ tượng Venus chỉ là một tảng đá.

3) Cách cắt nghĩa như thế của Phật giáo đúng hay sai, ta không cần bàn vội. Nhưng có một sự kiện mà ta không thể phủ nhận được, là với thân tâm hiện có, đại đa số chúng ta không có đủ khả năng để nhận thức bản thể của vạn pháp, bản thể là một cái ǵ hoàn toàn bất khả tri.

Tuy bất khả tri đối với đại đa số nhân loại, nhưng đă có vài vị thánh hiền như bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật và đức chúa Jesus Christ, và một số ít người khác đă chứng nghiệm được bằng cách tu luyện để biến cái thân phàm trần thành một tâm thức siêu phàm. Theo phương pháp nào có thể đưa tới mục đích kiến tánh thực sự hay chỉ là một ảo vọng, sẽ bàn đến sau. Giờ xin nói tiếp đến mục đích tối hậu là thành Phật, mà sự kiến tánh chỉ là phương tiện.

B/ Thành Phật.

Nói một cách khiêm tốn và giản dị hơn, thành Phật là thoát ly khỏi những khổ năo h́nh như là định mệnh con người.

1) Nhưng có đúng như thế không ? Có đúng cuộc đời chỉ là một bể khổ ? Tùy theo tâm tư và hoàn cảnh sinh sống, có người lạc quan và có người bi quan. Nhưng dù bi quan hay lạc quan, ai cũng phải công nhận rằng khổ năo có thực, ít hay nhiều, không ai tránh được hoàn toàn. Người xấu số th́ nào là buồn v́ nghèo hèn, nào là thất vọng v́ địa vị, t́nh yêu mong muốn mà không tới, nào là cay đắng tiếc một quá khứ vàng son không c̣n nữa, nào là lo sợ cho một tương lai mờ mịt đen tối. Người tốt số th́ tuy ít chịu những khổ năo trên, nhưng nếu chịu suy nghĩ kỹ th́ sẽ thấy rằng :

- Cái vui sướng chỉ có trong chốc lát, không được trường tồn. "Không có bữa tiệc nào là không có lúc tàn ", do đó mà cái vui sướng không được hoàn toàn, nó bắt buộc người ta trong lúc ngắn ngủi vui sướng đă phải lo lắng sợ nó chóng hết. Ví dụ người mới được bổ vào một chức vụ béo bở, đă lo lắng ngay không biết lúc nào sẽ mất địa vị đó.

- Cái vui sướng nhiều khi phải trả giá bằng một cái khổ. Ví dụ muốn có cái sướng thi đỗ th́ phải chịu khổ học hành, muốn có cái sướng được làm ông lớn th́ có khi phải khổ quỵ lụy luồn cúi.

- Cái vui sướng đôi khi có hậu quả đem lại một cái khổ. Ví dụ sau bữa tiệc thịnh soạn có thể bị bội thực, có nhiều tiền sẽ bị người ḍm dỏ, có địa vị sẽ bị người ghen ghét.

Ngoài ra, c̣n những khổ năo dính liền với tính chất vô thường của con người là già yếu, bệnh tật, những cảnh sinh ly tử biệt với người thân thuộc, v . v . th́ dù người có số tốt hay xấu đều không thể tránh được. Lại c̣n nỗi lo sợ về cái ǵ sẽ chờ ta ở bên kia thế giới, sau khi ta mệnh chung.

2) Khổ năo đă thực sự có, chứ không phải là kết luận vô căn cứ của người bi quan, th́ vấn đề được đặt ra là có thể nào tẩy trừ được chúng không?

Phật giáo trả lời : Có, và cắt nghĩa như sau : Những sự việc gây cho ta khổ năo, như tiền tài, địa vị, ân oán, yêu ghét, và ngay cả sinh mệnh của ta và của người khác đều không có tự ngă, đều chỉ là hư ảo mà vọng tâm nhận lầm là có thực. Kiến tánh tức là thấy rơ cái giả tướng của chúng, tức là không c̣n bị khổ năo v́ chúng nữa, tức là thành Phật, bậc Giác giả. Cũng ví như người ngủ mê, mơ thấy những ma quỷ hăi hùng, nhưng đến khi tỉnh dậy, chẳng thấy ǵ nữa, bèn khoan khoái cười ồ. Người kiến tánh thành Phật là người đă tỉnh giấc mộng cuộc đời, đă biết rằng cuộc đời chỉ là một giấc mộng lớn mà những nghiệp tiền kiếp đă khiến cho tâm thức ta nhận lầm là có thực, là người đă hiểu thấu lẽ Sắc-Không, "Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc,Thọ,Tưởng, Hành, Thức, diệc phục như thị"

3) Như vậy thành Phật không có nghĩa là thành một bậc dị nhân, trường sinh bất tử, có những phép hô phong hoán vũ, di sơn đảo hải. Người đă kiến tánh cũng chịu lăo, bệnh, tử, cũng không thể tránh được những biến cố năo ḷng như sinh ly tử biệt, nghèo đói, chiến tranh, v . v . , nhưng không để cho những biến cố đó ảnh hưởng đến tâm thức tự tại vô úy của ḿnh. Cũng ví như đi dưới trời mưa th́ làm sao ngăn được mưa không rơi ? Nhưng người cầm dù th́ mặc dầu có giọt mưa rơi xuống, vẫn không bị ướt. Thành Phật tức là luyện được cái dù chống lại những giọt mưa đau khổ. Nói một cách khác, thành Phật không có nghĩa là đảo lộn những luật thiên nhiên, mà chỉ có nghĩa là ứng phó với những luật thiên nhiên với một cách nh́n đời mới, thay đổi cái nhân sinh quan nhận lầm các tướng là có thực bằng một nhân sinh quan thấu triệt bản thể, khả dĩ giúp ta vượt khỏi các hệ lụy hư ảo của thế gian.

Và như vậy th́ tu đạo không bó buộc phải ĺa bỏ đời sống xă hội, trốn những trách nhiệm của người công dân, người con, người cha, v . v . Người tu thiền vẫn nhập thế chứ không xuất thế. Chỉ khác là trong khi nhập thế, có được một nhân sinh quan khác thế thường.

4) Cũng như ở đoạn trên, thuật giả đă nói rằng chúng ta không cần xét vội xem cái Chơn tánh có thể thực sự kiến được không hay chỉ là một ảo tưởng, ở đây thuật giả xin thêm rằng chúng ta không cần xét vội xem sự kiến tánh có thể giúp ta thành Phật được không, hay chỉ là một ảo tưởng. Chỉ có một cách để giải quyết những thắc mắc đó, là chúng ta hăy thành khẩn tu theo phương pháp của Thiền tông, sẽ thấy nó kiến hiệu hay không.

II. Phương Pháp.

A. Những nhận xét chung.

1) Xin nhắc lại : phương pháp tu của Thiền tông được truyền thụ từ thầy đến tṛ bằng những phương tiện khế hợp với mỗi đệ tử, ví dụ bằng một công án, một nụ cười, một tiếng thét to, một roi đ̣n, và nhất là bằng tấm gương đời sống của thầy, chứ không phải bằng ngôn ngữ (giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự).

Tại sao vậy ? V́ ngôn ngữ có tính cách ước lệ, nên chỉ có thể diễn tả được những sự việc :

a) có khách quan tính (objectivity) :

- hoặc thuộc về những đối tượng vật lư mà giác quan của mọi người có thể nhận thức được, trực tiếp như mầu sắc, h́nh dáng của một bông hồng, một trái cam, hoặc gián tiếp qua những máy móc và phương pháp khoa học tinh vi như nguyên tử và các luồng sóng từ điện;

- hoặc thuộc về những đối tượng phi vật lư như tư tưởng, cảm t́nh, mà tri thức của mọi người có thể nhận thức được một cách đơn-giản-hóa, đă trở thành những khái niệm (concept). Thế nào là một khái niệm đơn-giản-hóa ? Là chỉ cho biết đối tượng thuộc loại nào thôi, chứ không cho biết những đặc tính cá biệt của nó. Cũng như danh từ cây cam áp dụng cho cả cây cam nhà tôi, cây cam nhà anh, một danh từ phi vật lư như t́nh yêu nam nữ có thể là yêu say đắm, yêu mê muội, yêu sỗ sàng, yêu kính phục, v . v ., muôn vàn thứ yêu có đặc tính cá biệt, nhưng đă được đơn-giản-hóa để thành một khái niệm khách quan mà mọi người có thể lĩnh hội được một cách đại khái.

Trái lại, những ư nghĩ nào mà chỉ có tính cách chủ quan (subjectivity) th́ ngôn ngữ ước lệ không thể nào diễn tả trung thực được. Ví dụ có thể nói rằng tất cả chúng ta đều yêu thơ Nguyễn Du, nhưng cách tôi yêu thơ đó khác anh, vấn đề này tế nhị và phức tạp vô cùng, tùy theo hoàn cảnh sinh sống của mỗi người, ngoài ra c̣n tùy thuộc ta đọc thơ đó khi c̣n trẻ hay đă già, vào mùa xuân hay mùa thu, v . v . , những ư nghĩ chủ quan đó về thơ Nguyễn Du không thể nào diễn tả hoàn toàn trung thực được bằng ngôn ngữ.

b) Ngôn ngữ cũng chỉ có thể diễn tả được những đối tượng có tính cách tĩnh (statique), nghĩa là chỉ xử dụng được những chữ đă được xă hội gán cho một ư nghĩa nhất định, có giới hạn hẳn hoi, như yêu khác ghét, thiện khác ác, những danh từ yêu, thiện không thể đồng thời có ư nghĩa ghét, ác.

Trái lại,những t́nh cảm yêu, ghét, và những ư nghĩ về thiện, ác th́ sống động (dynamique) trong tâm tư mỗi người, có thể đồng thời hiện hữu, có thể chuyển biến từ cái nọ sang cái kia, có thể xung đột nhau và cũng có thể điều ḥa với nhau tùy từng lúc. Một ví dụ : trong nết ghen của Hoạn Thư, có lẫn lộn ḷng hận thù và niềm kính yêu, hai t́nh cảm hoàn toàn trái ngược nhau.

Trở lại vấn đề Kiến Tánh, th́ thấy rằng nó là một sự kiện vừa chủ quan vừa sống động. Nó có chủ quan tính mà không có khách quan tính v́ Chơn Tánh không phải là một hiện tượng có thể trông thấy được, sờ mó được, đo lường được, suy luận được. Nó chỉ có thể nhận thức trong thâm tâm, trong đáy ḷng, bởi một tâm thức siêu phàm đă gột rửa những lối suy nghĩ và t́nh cảm của thế tục. Nó lại sống động, không tuân theo lư luận cứng nhắc, v́ nó là sự sống, nó theo dịch lư chứ không theo kinh sách, nó luôn luôn trở thành (devenir) chứ không là (être), bởi vậy nó chỉ có thể cảm thấy trong thâm tâm chứ không thể đóng khung trong những định nghĩa cứng nhắc. Do đó mà Thiền tông chủ trương : "giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự."

2) Phép tu của Thiền tông không dùng ngôn ngữ để giải thích Chơn Tánh, nhưng các thiền sư cũng cố gắng làm nẩy nở chơn tánh trong tâm thức của đệ tử bằng những phương tiện chỉ thẳng vào tâm (trực chỉ nhân tâm) như công án, hét, bổng, như đă nói ở trên. Nếu chúng ta không được may mắn theo học một thiền sư, th́ các phương tiện đó trở thành vô nghĩa đối với chúng ta. Nhưng mục đích của chúng, hiệu lực của chúng, th́ có thể hiểu như sau : Chúng có mục đích gây cho thiền sinh đang c̣n ch́m đắm trong lối suy luận và cảm xúc đă được nhào nặn bởi đời sống xă hội, một kích thích tâm lư mănh liệt, hoặc là cảm xúc (émotional), hoặc là trí thức (intellectual), khiến cho tâm thức của hắn bị đẩy ra ngoài khuôn khổ ước lệ, khơi động bất ngờ nguồn tiềm thức (unconcious) bấy lâu bị đè nén dưới ư thức (concious), và giải phóng cái bản thể tự nhiên, chưa bao giờ bị mất mà chỉ bị che lấp thôi. Cũng như thỏi sắt bị han rỉ, nếu ta dùng giấy nhám mà kỳ cọ nó, th́ cái ruột sắt nguyên chất sẽ hiện h́nh.

Phép tu của Thiền tông là lấy giấy nhám mà loại bỏ các tầng lớp han rỉ để cho Chơn Tánh được hiển lộ. Nếu ta không có thiền sư chỉ bảo, th́ cũng có thể tự ḿnh làm công việc đó bằng cách suy nghĩ về các giáo lư của đạo Phật như Vô ngă, Nhân quả, Luân hồi,Ơ v.v. Suy nghĩ đến lúc nào lư trí của ta bị mắc nghẽn, không thể tiến được nữa. Lúc đó, nếu ta có phúc phận (nghĩa là căn cơ tốt), th́ cánh cửa Kiến Tánh sẽ mở rộng, Tuệ Nhăn của ta sẽ phát hiện, trong một thoáng giây nh́n thấy cái Bản Thể Chơn Như không bợn một chút niệm nào (Không), nhưng cũng đồng thời tràn ngập Chơn lư tuyệt đối, tiết lộ lẽ mầu nhiệm của Vũ Trụ và của

3) Để giúp đỡ thiền sinh dễ dàng Định tâm, rồi từ định tâm tiến tới việc mở Tuệ nhăn, phương pháp Thiền tông cũng xử dụng một phần cách luyện tập thân thể của Yoga, nhưng giản dị hơn. Đó là những công phu điều thân và điều thức.

Vậy dưới đây sẽ xin lần lượt tŕnh bầy hai bước đi của phép tu theo Thiền tông, là Định tâm và mở Tuệ nhăn. Phân biệt làm hai bước, v́ trong vài tháng đầu thiền sinh chỉ nên chăm chú làm công phu điều thân và điều tức thôi. Nhưng đến khi mục đích Định tâm đă đạt được rồi, th́ phải song song tiến hành hai công phu Định tâm và mở Tuệ nhăn. Cũng ví như người tập đi xe đạp, lúc đầu phải chú trọng đến việc giữ sao cho thân thể được thăng bằng, khỏi ngă. Nhưng sau khi đă biết đi xe đạp rồi, th́ có thể buông tay lái, rút điếu thuốc ra khỏi bao, châm diêm để hút, mà vẫn giữ được thăng bằng. Cũng vậy, bước sang giai đoạn thứ hai, thiền sinh vẫn làm các công phu điều thân và điều tức, nhưng không cần chú ư đến chúng nữa, v́ chúng đă trở thành những phản ứng tự nhiên và tự động (réflexes involontaires), mà tiến đến công phu thứ hai là mở Tuệ nhăn.

Nói tóm lại, muốn mở được Tuệ nhăn có khả năng nh́n thấu Chơn tánh, th́ trước hết nên t́m cách đặt thân thể vào một thế thoải mái (relaxation), rồi sau đó mới có thể dễ dàng vận dụng tâm trí theo một chiều hướng nào đó. Và trước khi tŕnh bầy phương pháp tu theo Thiền tông, tưởng cũng nên nói qua về các phương pháp khác.

B. Các phương pháp khác Thiền tông.

1) Xử dụng ma túy. Nói đúng ra th́ đây không phải là một phương pháp tu hành, mà chỉ là một lối đi t́m những nguồn cảm hứng mới, những cảm giác phi thường, một thiên đường giả tạo. Ai cũng biết rằng người hút thuốc phiện đôi khiƠ cảm thấy tâm hồn ḿnh như bay bổng vào cơi siêu h́nh, khoái lạc không thể tả. Không những phương pháp đó vô cùng nguy hiểm, nhưng vào cái thiên đường gỉa tạo đó đâu phải là sự Giác ngộ chân chính, nó chỉ là một cảm giác bệnh hoạn, nặng về những khoái cảm thấp hèn.

2) Thứ hai là lên đồng, múa may quay cuồng theo tiếng đàn hát du dương của cung văn, cũng có thể đưa đệ tử của đức Mẫu Thượng Ngàn tới một trạng thái mông lung, tương tự trạng thái của người xử dụng ma túy.

3) Một phương pháp hoàn bị hơn là lối tập Yoga, gồm có các tư thế thân thể khiến cho tâm tư tiến sâu vào phần Tiềm thức, và phát triển một sinh lực phi thường, có thể biểu lộ thành những phép lạ như thôi miên, xuất hồn đi du ngoạn khắp thế giới và cả những cơi Bồng lai tiên cảnh, nh́n vào một hột giống để chỉ trong vài phút nó nẩy nở ngay thành một cây có hoa lá, v.v. Nhưng đó là một phương pháp bí mật, rất khó học, nếu không có thầy hay chỉ dẫn th́ có thể thành mê cuồng, phát điên, theo danh từ vơ học th́ gọi kết quả tàn khốc đó là Tẩu hỏa nhập ma.

4) Sự dâng trọn tâm hồn vào một tác phẩm nghệ thuật như cầm kỳ thi họa. Người nghệ sĩ chân chánh có thể quên hẳn thân ḿnh, quên hẳn cuộc đời thực tế và g̣ bó, để thả tâm hồn vào cơi tận Mỹ. Nhưng chỉ đến được cơi tận Mỹ, c̣n tới cơi tận Chơn, tận Thiện, lại là một việc khác. Huống hồ những người có nghệ sĩ tính chỉ là một thiểu số, nên phương pháp đó không thể phổ biến cho đa số chúng ta được.

5) Sự dâng trọn tâm hồn vào một đấng Cứu thế, vô lượng từ bi, cho tới khi nhất tâm bất loạn tự khắc mọi phiền năo và dục vọng sẽ tan biến đi, tâm lâng lâng vô úy v́ đă cảm thấy được sự che chở của đấng Cứu thế. Đó là phương pháp tu của những tín đồ thành kính của Thiên Chúa giáo và Phật giáoTịnh Độ tông. Phương pháp này rất hữu hiệu để đạt tới một trạng thái tâm lư vô cùng an lạc, nhưng chưa chắc dẫn được tín đồ tới sự giác ngộ bản thể của ḿnh và của vạn pháp. Nó hoàn toàn dựa vào ḷng thành tín đối với một đấng Cứu thế, ít xây dựng trên nhu cầu t́m hiểu mọi vấn đề siêu h́nh. Do đó nó thích hợp với những người chất phác, có ác nghiệp nhẹ, nên rất dễ được cứu độ.

C. Phương pháp của Thiền tông.

1) So sánh với phương pháp cầu nguyện. Về phương diện kết quả, nó đầy đủ hơn phương pháp cầu nguyện một đấng cứu thế, v́ cũng đạt được tâm an lạc, lại c̣n kiến được Chơn tánh. Về phương diện khế hợp, nó thích nghi với những người trí thức, nhưng căn cơ lại kém, vọng tâm khó trừ, có nhiều thắc mắc, muốn được hiểu rơ mới chịu tin theo.

Thuật gỉa không giám nói là trong hai phương pháp đó cái nào hơn, cái nào kém. Tùy căn cơ của ḿnh, có người dễ dàng thành công với phương pháp này, có người thành công với phương pháp kia. Tốt hơn là nên vừa thành tín vào một đấng Cứu thế, vừa tu tập theo phương pháp Thiền tông. Như thế không phải là ta thiếu lập trường, theo chính sách ba phải đâu. Bởi v́ :

a) Cái bản thể Chơn Như của vạn pháp, dù ta hiểu rằng nó tự hữu, không do một đấng thánh thần Nhân-cách-hóa nào sinh ra, nhưng vẫn phải nhận rằng nó có một sức biến hóa mầu nhiệm, không thể giải thích được. Vậy ta cầu nguyện là cầu nguyện cái Lực mầu nhiệm đó chứ không hẳn là cầu nguyện một đấng thánh thần Nhân-cách-hóa.

b) Cả hai phương pháp trên đều khởi đầu từ một điểm chung là Nhất tâm bất loạn. Rồi từ trạng thái tâm lư đó, người tu theo Tịnh Độ tông sẽ thấy hiện ra trong tâm tư ḿnh h́nh ảnh của đức Phật tới soa đầu ḿnh, rưới nước cam lộ, và đến khi lâm chung đón rước ḿnh về Tây phương Cực lạc thế giới. C̣n người tu theo Thiền tông th́ sẽ thấy thể Không của Chơn tánh, các tướng đều là hư ảo, và ḿnh sẽ được tự tại vô úy như người ra khỏi bóng tối âm u mà nh́n thấy ánh dương quang rực rỡ.

2) Nội dung phương pháp Thiền tông. Nó căn cứ vào hai sự kiện :

a) Một là sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa thân thể và tâm tư. Người đang giận dữ tất nhiên mặt phải đỏ gay, phùng mang trợn mắt; người vui tự nhiên mỉm cười, mắt sáng, và người buồn tự nhiên cau mày ủ dột, v . v . Và nhất là nhịp thở trong những trạng thái tâm lư đó phải khác nhau. Ta muốn định tâm, nhưng không thể nào trực tiếp sai bảo được cái tâm. Ta phải dùng cách gián tiếp sai bảo cái thân, rồi sau đó mới dễ dàng định tâm được.

b) Hai là theo quy luật của tâm mà chuyển nó từ tâm định đến tâm vô niệm. V́ tuy nhờ các công phu điều thân và điều tức mà tâm đă định được, nhưng bản chất của nó là suy nghĩ, không thể bắt nó ngừng suy nghĩ mà vẫn có ư thức. Thường thường khi tâm ngừng suy nghĩ th́ cũng mất luôn ư thức, tức là rơi vào giấc ngủ. Tâm vô niệm, trái lại, là tâm ngừng suy nghĩ nhưng vẫn ư thức được rằng ḿnh đang trống rỗng, vô niệm.

Vậy muốn đi tới trạng thái tâm vô niệm có ư thức (Wakeful), th́ hăy để nó suy nghĩ đến cùng cực cho tới một lúc nào đó nó cảm thấy những cố gắng suy nghĩ của nó đều vô hiệu, vấp phải một bức tường không thể vượt qua. Cái bức tường đó là giới hạn giữa cái lănh vực khả tri và cái lănh vực bất khả tri, có thể chính là lănh vực của ư thức (concious) chỉ có khả năng nhận thức các tướng, và lănh vực của tiềm thức (unconcious) có khả năng nhận thức được Chơn Tánh. Có đích là tiềm thức có khả năng nhận thức được Chơn Tánh không, như vài nhà phân-tâm học bảo ? Cái đó chưa lấy ǵ làm chắc, nhưng có một sự kỳ lạ là khi công phu suy nghĩ theo lối lư luận thông thường bị bế tắc, rất có thể tâm ta vượt qua bức tường chắn nó, sẽ rời khỏi cái trí thức thông thường để nhẩy vào cái trí thức siêu phàm. Binh pháp cũng đă nói đến một sự kiện tương tự : Có đặt ḿnh vào đất chết th́ mới t́m thấy sinh lộ. Khi phải chiến đấu với một kẻ địch mạnh hơn, nếu người chiến sĩ c̣n thấy có đất rút lui th́ sẽ ngă ḷng, rút lui chạy trốn. Trái lại, nếu bị dồn vào đường cùng, một con sông rộng hay một dặng núi cao, th́ mới chịu lăn xả vào cái chết, mới chiến đấu không cần mong sống nữa, và may ra lại t́m được sự sống trong cố gắng tuyệt vọng.

Các thiền sư thấu hiểu sự kiện đó, nên khi xưa bắt các đệ tử phải suy nghĩ về các công án không có giải đáp, ví dụ : Thế nào là tiếng vỗ của một bàn tay ? Nói một cách khác, thế nào là âm thanh vô thanh ? Dù suy nghĩ đến đâu, thiền sinh cũng không thể giải đáp được câu hỏi hắc búa đó, nó tượng trưng cho vấn đề chính yếu của Phật giáo là : Thế nào là cái sắc vô sắc ? thế nào mà Không tức thị Sắc, thế nào mà trong Tướng có Tánh và trong Tánh có Tướng ? Nhiều mà là Một, và Một mà là Nhiều ? Và nếu trí óc thiền sinh đă đến tŕnh độ chín mùi rồi, sẽ hốt nhiên đại ngộ. Đại ngộ cái ǵ, thế nào, tại sao, chúng ta là người ngoài cuộc, bây giờ không thể biết được.

Như trên kia đă nói, chúng ta không có sẵn thiền sư chỉ dẫn, chúng ta không thể dùng các công án kỳ quặc đó để đại ngộ theo đường tắt được. Chúng ta đành phải suy nghĩ cùng cực về các giáo lư đạo Phật, rồi tới một lúc nào đó cũng sẽ đi vào ngơ cụt, cũng thấy rằng không thể hiểu được thông suốt những giáo lư đó bằng lư luận thông thường. Và đến lúc đó, may ra, nếu tâm thức của ta đă chín mùi, ta cũng sẽ được giác ngộ, nhưng theo một đường lối dài hơn.

Dưới đây, căn cứ vào những kinh sách đă được đọc và những mẩu chuyện của những bạn đă ít hay nhiều đạt tới trạng thái Định tâm và mở được Tuệ nhăn, thuật giả xin lần lượt tŕnh bầy 2 phần của phương pháp tu theo Thiền tông, là :

(1)Các công phu điều thân và điều tức

2) Công phu mở Tuệ nhăn.

Phần Hai :

Điều Thân Và Điều Tức.

I. Những điều kiện thuận tiện.

A. Điều kiện hoàn cảnh.

1) Địa điểm. Chỗ nào cũng được, và những người đă đắc đạo th́ dù ở giữa nơi náo nhiệt vẫn giữ được đạo tâm. Nhưng đối với người mới tập luyện th́ nên chọn nơi kín đáo sẽ dễ thành công hơn. Thường là pḥng ngủ riêng, nhưng nếu phải chung pḥng ngủ với vợ con, th́ khi tọa thiền nên sang một pḥng khác, ví dụ pḥng tiếp khách. Nếu nhà có gian thờ Phật hoặc tổ tiên th́ tốt nhất, v́ nơi đó có sẵn không khí trang nghiêm. Có thể thắp đôi nến sáng lờ mờ và một nén nhang, nhưng phải tắt đèn điện quá chói sáng.

2) Thời gian. Phải là giờ tĩnh mịch, thật ít tiếng động. Thường là sáng sớm, khi người nhà chưa thức dậy, hoặc là đêm khuya, khi người nhà đă đi ngủ. Có người bảo giờ Tư (từ 11 giờ đêm đến 1 giờ sáng) là tốt hơn hết, v́ lúc đó hai khí âm dương của trời đất giao hợp. Nhưng ngồi thiền giờ đó khiến cho giấc ngủ bị cắt quăng, có hại cho sức khỏe đối với người già cả. Dù sao th́ giờ ngồi thiền cũng phải cách bữa ăn tối ít nhất là 2 giờ, để cho bụng được nhẹ, không c̣n ỳ ạch nữa. Thời gian ngồi thiền càng lâu càng tốt, v́ ngồi mỗi lần quá ngắn khó đem lại kết quả mong muốn. Những ngày mới tập có thể chỉ ngồi 10, 15 phút cho quen dần, nhưng về sau phải dần dần tăng lên nửa giờ, một giờ, hoặc lâu hơn thế nếu có thể. Giải pháp tốt nhất là ngồi thiền trong buổi sáng sớm trước khi mặt trời mọc, thắp một nén hương và chỉ xả thiền sau khi nén hương tàn. C̣n buổi tối nên đi ngủ sớm để dưỡng sức khỏe, và chỉ cần niệm Phật hoặc tụng kinh trong 15, 30 phút là đủ để giữ tâm hồn an tịnh trong giấc ngủ.

3) Quần áo. Tùy tiện, miễn sao thân thể khỏi bị khó chịu v́ nóng quá hay lạnh quá. Mùa đông phải mặc áo ấm, c̣n mùa hè th́ nên mặc áo nhẹ, hoặc cởi trần cũng được. Ngoài ra, giải rút quần và khuy áo cài cổ nên nới lỏng để khỏi trở ngại việc hô hấp.

4) Tọa cụ. Trên đất nên trải một tấm thảm để chân khỏi chạm đất và nhiễm lạnh. Trên tấm thảm lại đặt một bồ đoàn dầy chừng 4, 5 phân để ngồi trên đó, không những để đôi mông được êm, mà c̣n để cho thân thể dễ dàng thẳng hơn là khi mông và đùi ngang nhau. Chiếc bồ đoàn có thể là một mảnh đệm ghế, hoặc một tấm chăn len gấp lại nhiều lần cho đủ dầy.

B. Điều kiện tâm lư.

Mục đích trước tiên là dẹp bỏ tâm vọng động, để rồi sau sẽ tiến tới trạng thái tâm vô niệm. Do đó :

1) Phải tập quen cho ngũ quan không đáp ứng với ngoại cảnh, nghĩa là không nh́n, không nghe, không ngửi thấy ǵ nữa. Thực ra th́ mắt vẫn nh́n, tai vẫn nghe thấy, mũi vẫn ngửi thấy, mà chỉ không để cho cái nh́n thấy, cái nghe thấy, cái ngửi thấy đó làm bận tâm ḿnh nữa. Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp một người mải mê suy nghĩ về một vấn đề quan trọng th́ khi hắn đi ngoài phố mà nào có trông thấy ai đâu, có khi lại c̣n nguy hiểm không trông thấy xe qua lại, không nghe thấy tiếng c̣i xe nữa. Việc tọa thiền cũng dẫn dắt ta đến trạng thái đăng trí tương tự, nhưng là đăng trí vô niệm chứ không phải vô tri, để tập cho ta thoát ly dần dần những ảnh hưởng cám dỗ hoặc phiền muộn của ngoại cảnh. Muốn đạt mục đích đó th́, trong thời gian ngồi thiền, phải tập dần dần không c̣n để ư đến những tiếng động nhỏ trong đêm khuya, như tiếng xe chạy ngoài đường, tiếng đồng hồ tí tách, rồi sau cùng không nghe thấy ǵ nữa. Nói một cách khác, là phải hướng sự nghe vào trong, chỉ nghe thấy tiếng niệm Phật thầm trong ḷng mà thôi. Lúc nào nghe rơ tiếng niệm Phật thầm là thành công.

2) Thoát ly khỏi ảnh hưởng của ngoại cảnh c̣n dễ, thoát ly khỏi những giao động của nội tâm khó hơn nhiều. Người mới tập thiền luôn luôn có tâm viên ư mă, nghĩa là tâm vọng động như vượn nhẩy, ngựa chạy. Chợt lo lắng về một tương lai mờ mịt, chợt nuối tiếc một quá khứ vàng son, chợt vui, chợt buồn, chợt hận những tên gian ác hại dân, chợt mong muốn cảnh thái b́nh thịnh trị, v . v .

Làm thế nào để thoát ly những mối bận tâm đó ? Sau đây, sẽ thấy rằng chúng tự nhiên bị xua đuổi khi ta chú ư vào một vấn đề giáo lư nào. ở giai đoạn đầu, chỉ cần biết rằng : Vọng tâm là trạng thái b́nh thường của kẻ chưa vào đạo, làm sao có ngay được tâm định ? V́ vậy, trong khi ngồi thiền, nếu vọng tâm chợt nổi, không có ǵ đáng ngại cả, cứ để nó đến. Điều duy nhất phải làm là ư thức được nó ngay, rồi nhẹ nhàng gạt bỏ nó ra, trở về với công việc đếm hơi thở hay quan sát bụng ph́nh ra hóp vào sẽ nói ở một đoạn sau. Ví như một hiệu tạp hóa đâu có cần ngăn cản ngay từ cửa vào những tên bất lương trộm cắp ? Nhưng đă có những cặp mắt quan sát kín đáo, nếu kẻ gian "cầm nhầm" một món hàng rồi ra cửa không trả tiền, th́ liền bị tóm cổ, mời về bóp. Lâu dần những kẻ gian tham sẽ không c̣n dám bén mảng đến cửa hiệu tạp hóa lợi hại đó nữa. Cũng vậy, với công phu luyện tập bền bỉ, những ư nghĩ loạn động sẽ thưa thớt dần, rồi cuối cùng sẽ không xuất hiện nữa.

3) Nhưng công việc luyện tập đó phải thực hiện trong tinh thần tự nhiên, thoải mái, chứ không phải trong tinh thần căng thẳng, mong ước. ước mong chóng thành đạo th́ chẳng bao giờ thành đạo cả. Vậy chớ có nôn nóng, phải b́nh tĩnh kiên nhẫn chờ ngày phát hiện chơn tâm. Tùy căn cơ (tức là nghiệp tiền kiếp, nó ảnh hưởng đến A Lại Da Thức có nhiều hay ít chủng tử hướng về đạo), có người chóng ngộ đạo, có người lâu mới ngộ đạo. Và dù trong trường hợp lâu hay chóng, cứ vững tâm rằng trong mỗi người chúng ta đă có sẵn Phật tâm, cứ việc kiên nhẫn tu hành, không thành đạo ngay trong kiếp này th́ cũng là chuẩn bị cho việc thành đạo trong một kiếp sau. Ngày nay ḿnh đă chớm nở ư muốn học đạo, đă bắt đầu tu tập, th́ đó chính là dấu hiệu rằng ḿnh đă có cơ duyên sẽ thành đạo, ḿnh phải kiên nhẫn vâng theo tiếng gọi thiêng liêng đó.

II. Kỹ thuật điều than và điều tức.

A. Điều thân.

1) Ai cũng biết rằng giữa thân thể và tinh thần có mối liên quan mật thiết. Do đó, muốn cho tâm bất loạn th́ nên giữ cho thân cũng bất động. (Nên nhớ rằng đó là một điều kiện thuận tiện chứ không phải là một điều kiện tuyệt đối cần thiết. Người luyện vơ, bổ củi, tuy thân có chuyển động, vẫn có thể điều tâm được nếu mải mê chuyên chú vào công việc đó). Nhưng tại sao không đứng, nằm, mà lại phải ngồi ? V́ đứng lâu th́ mỏi chân, và nằm lâu th́ dễ ngủ quên. Do đó, tốt hơn hết là nên ngồi.

2) Phải ngồi như thế nào ? Nguyên tắc là muốn cho thân thể được vững vàng bất động trong suốt buổi thiền, th́ trung tâm trọng lực (centre de gravité) của toàn thân (ở bụng, gần rốn) phải rơi xuống giữa h́nh thang (trapèze) họp bởi hai mông ngồi trên bồ đoàn và hai đầu gối đặt trên tấm thảm.

Như vậy, cách ngồi có thể tùy tiện, miễn là điều kiện trên được thỏa măn. Có thể ngồi trên ghế và bỏ thơng chân xuống tấm thảm cũng được, nhưng trong tư thế nàyƠ thân dễ ngả nghiêng v́ h́nh thang quá hẹp.

Kiết già là lối ngồi trên bồ đoàn, chân nọ bắt tréo lên đùi kia, khiến cho cả hai đùi và hai đầu gối đều dựa trên mặt thảm. Tư thế này vững chắc nhất nhưng khó thực hiện đối với người già, chân đă cứng.

Bán già th́ dễ hơn, chỉ một chân bắt chéo lên đùi kia, c̣n chân kia th́ đặt xuống thảm. Như vậy chỉ có một đùi và một đầu gối chạm thảm, khiến cho thân thể không hoàn toàn đối xứng (symétrique).

Cuối cùng, có thể ngồi trên bồ đoàn, c̣n hai đùi và hai đầu gối đều đặt trên thảm, nhưng không chân nào bắt tréo lên đùi kia cả. Tư thế này cũng đối xứng như lối kiết già, nhưng cái mạch điện (circuit) chạy trong người không được đóng kín như khi có chân nọ đặt lên trên đùi kia.

Nói tóm lại, ngồi theo tư thế nào cũng được, miễn là vững chắc, không ngả nghiêng. Cũng nên kể thêm một yếu tố, là sự tê chân mà một số người thường bị khi ngồi lâu. Tùy người, có người thấy ít tê chân với lối ngồi này mà tê chân nhiều với lối ngồi kia. Vậy sau khi thí nghiệm các lối ngồi, ta thấy lối nào ít tê chân th́ theo.

Có hai cách đối phó với sự tê chân. Một là tạm ngừng buổi tọa thiền, ruỗi chân ra, nắn bóp cho nó hết tê, rồi lại ngồi thiền trở lại. Cách thứ hai sau này tốt hơn : là để mặc cho chân tê, cố chịu, rồi dần dần nó sẽ biến đi. Cứ chịu đựng như thế được vài lần, rồi trong những buổi ngồi thiền sau sẽ không c̣n thấy chân bị tê nữa.

3) Ngoài ra, trong khi ngồi thiền :

- mắt có thể mở hay nhắm tùy ư. Nhưng nếu mở mắt th́ chỉ nên nh́n vào một điểm nào trước mắt thôi, ví dụ đầu nén hương, không được xê dịch nh́n chỗ khác.

- đầu và thân phải giữ cho thẳng, không được nghiêng ngả sang trái hay phải, hoặc ngửng lên cúi xuống.

- đôi bàn tay th́ hoặc úp lên trên hai đầu gối, hoặc lồng vào nhau và đặt ngửa trước bụng, dựa trên hai chân.

- miệng nên mím lại, hai hàm răng sít nhẹ vào nhau, và lưỡi th́ ấn nhẹ vào phía trên, cạnh hàm răng trên. Nếu có nước miếng chẩy ra đầy mồm, chớ có nhổ, nên nuốt vào bụng v́ nước miếng rất quư, có các chất phân hóa tố làm cho việc tiêu hóa được dễ dàng.

B. Điều tức.

1) Muốn cho tâm được lắng dịu, không những phải giữ thân bất động, mà c̣n phải điều khiển hơi thở theo mấy quy tắc sau đây :

a) Thở phải thật điều ḥa, giữ vững một nhịp điệu, và nhẹ nhàng, không gây một tiếng kḥ khè nào.

b) Phải chậm lại chút ít để cho hai lá phổi, tuy vẫn nhận được mỗi lần hít vô nhiều không khí mát lành, nhưng với một tốc độ giảm đi. Có như vậy th́ tâm mới dễ dàng lắng đọng, cũng ví như một chiếc động cơ, nếu nhận bớt săng vào th́ tự khác sẽ quay chậm lại. Nhịp thở trung b́nh của một người khi không ngồi thiền là 15 chu kỳ hít vô và thở ra trong một phút. Trong khi ngồi thiền, ta hăm bớt nhịp độ đó xuống 10, hoặc đến 6 là đủ (nghĩa là mỗi chu kỳ hô hấp dài từ 6 tới 10 sao, thay v́ 4 sao). c)

Phải xả bỏ những lực căng thẳng (forces de tension) c̣n lại trong thân. Những lực căng thẳng đó là ǵ ? Có người giải thích rằng đó là sự xung đột giữa ư thức và tiềm thức. Có người giải thích rằng đó là những luồng điện chạy trong người. Ta lại c̣n có thể nghĩ rằng đó là những ác nghiệp vẫn c̣n ngự trị tâm hồn ta. Cách giải thích nào đúng, vấn đề đó không cần thảo luận. Cái quan trọng là sự kiện trong khi tọa thiền, mặc dầu ta đă điều thân và điều tức đúng phép, tâm tư ta vẫn chưa hoàn toàn thoải mái, vẫn c̣n những luồng sóng ngầm giao động nó. Muốn khắc phục những luồng sóng ngầm đó, phương pháp của ông Tám (người truyền bá phép Tu Xuất Hồn) tỏ ra rất hiệu nghiệm : Là cả trong khi hít vô và thở ra, luôn luôn đưa hơi thở lên trên (upwards), chứ không bao giờ đưa xuống. Nghĩa là : khi hít vô th́ ph́nh bụng ra trước, để không khí đầy bụng trước, rồi mới từ từ đưa nó lên phổi và khắp cả thân thể; khi thở ra, th́ hóp bụng lại, để tống không khí từ phổi và khắp thân thể lên mũi, và tưởng tượng rằng hơi thở xuyên qua nê hoàn cung (xoáy đầu).

2) Điều tức c̣n có mục đích thứ hai là, trong khi ngăn chận các tạp niệm nổi dậy, th́ vẫn giữ tâm thức hoàn toàn tỉnh thức (wakeful), chứ không biến mất đi như trong giấc ngủ. Muốn đạt mục đích này, h́nh như tương phản với mục đích thứ nhất, các thiền gia đă nhận xét rằng : Tại đan điền (chỗ bụng dưới rốn chừng 2, 3 phân) có một trung tâm thầnƠ kinh, nó là gốc rễ của tinh lực (vital spirit). Và muốn cho tinh lực được dồi dào khả dĩ giữ cho tâm thức được hoàn toàn tỉnh táo, th́ ta phải căng thẳng những bắp thịt của bụng, nhất là hoành cách mô (diaphragme). Do đó, trong khi tọa thiền, ta chỉ nên thở bằng bụng, khi hít vô th́ căng ph́nh bụng để cho hoành cách mô hạ xuống, và khi thở ra th́ bóp bụng để cho hoành cách mô trồi lên.

Phần Ba : Mở Tuệ Nhăn.

Vài điểm sơ khởi nên chú ư :

1) Sự mở Tuệ nhăn (c̣n gọi là trí Bát Nhă) khác xa với sự hiểu biết sau khi lư luận theo các phương pháp phân tách (analyse), tổng hợp (synthèse), diễn dịch (déduction) và qui nạp (induction). Nó gần gần giống sự đột khởi của trực giác (intuition). Sự việc này ai cũng đă từng chứng nghiệm rồi, nhất là trong giới nghệ sĩ. Ví dụ một họa sĩ muốn vẽ một bức tranh chợ Tết để diễn tả nỗi vui trong ḷng ḿnh. Nhưng ông suy nghĩ măi mà vẫn chưa thấy nên bố trí thế nào cho bức họa được thập phần mỹ măn, tiếp tục suy nghĩ măi, rồi hốt nhiên một lúc nào đó hiện ra trong đầu óc h́nh ảnh rất rơ rệt cái mà ḿnh muốn vẽ, đầy đủ nét h́nh và mầu sắc sống động. Và họa sĩ chỉ c̣n việc dùng bút vẽ lại cái mà ḿnh đă trông thấy trong đầu óc. Những bức danh họa và nét bút sương kính của cổ Trung Hoa là một thí dụ điển h́nh của sự kiện người nghệ sĩ đă xuất thần mới sáng tác được những tác phẩm siêu phàm đó.

Lịch sử khoa học Âu Tây ghi rằng ông Newton nghĩ măi mà không t́m ra nguyên cớ tại sao mặt trăng luân chuyển chung quanh trái đất. Rồi bỗng một hôm ông nh́n thấy một quả táo ở trên cây rụng xuống đất. Ông bèn hốt nhiên phát minh ra định luật "Vạn vật tương hấp dẫn". Bên Á đông cũng có một trường hợp xuất phàm trong lịch sử tư tưởng. Vương Dương Minh sống dưới thời nhà Minh, mặc dầu đă thi đỗ tiến sĩ, làm quan to, vẫn thắc mắc về sự chú giải Nho giáo của các Hán nho, Tống nho. Rồi ông bị gian thần hăm hại bị đầy xuống miền Nam di. Ông bèn lợi dụng thời gian bị đi đầy để nghiền ngẫm về Nho học. Rồi bỗng một đêm ông phát minh ra thuyết Trí lương tri, nghĩa là tâm ta có sẵn ch́a khóa mở các bí mật của các sự vật, cách vật chỉ là trí tri mà thôi, chỉ là giữ tâm yên lặng để nó có thể thấu hiểu mọi lẽ. Ông bèn ngồi dậy, ôn lại từng câu trong Tứ thư ngũ kinh, th́ thấy ư nghĩa sáng ḷa, không c̣n chỗ nào nghi ngờ vấp váp nữa. Trạng thái trí lương tri của nho gia Vương Dương Minh đă đi xa hơn trạng thái trực giác của khoa học gia Newton, và đă tiến gần đến quả Bát Nhă của nhà Phật. Phật giáo dậy rằng :

- Các pháp trong Vũ trụ không ngoài Sự (tức là các sự vật và các hiện tượng cá biệt) và Lư là nguyên lư hoặc thực thể tối hậu ẩn dưới các cá vật và hiện tượng.

- Điều đó trí thức suy luận của chúng ta hiểu được, nhưng trí siêu phàm hay Bát Nhă c̣n hiểu thêm rằng: lư sự vô ngại, nghĩa là không có sự khác biệt giữa Không và Sắc, giữa bản thể và hiện tượng. Sắc là sự, giữa nó và lư của nó là Không, không có ngăn ngại ǵ cả; sự sự vô ngại , nghĩa là tất cả các sự vật trong vũ trụ đều chung một thể, chúng sinh là Phật và Phật cũng là chúng sinh, tôi là anh và anh cũng là tôi.

Chỉ khi nào vọng tâm được rửa sạch và chơn tâm hiển lộ th́ mới đạt được trí Bát Nhă, hiểu rơ lư sự vô ngại và sự sự vô ngại, và lúc đó sẽ thoát khỏi ṿng cương tỏa của thời gian và không gian, của định mệnh con người, tự thấy ḿnh vui một cách hồn nhiên, tự tại, tâm vô quải ngại, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn.

2) Sự mở Tuệ nhăn là một biến cố thay đổi hoàn toàn tâm tư của một người, không những trên b́nh diện trí thức, mà là sự thấm nhuần chân lư cả trên b́nh diện t́nh cảm và ư trí, một cách tự nhiên nhi nhiên. Nghĩa là đứng trước bất kỳ một hoàn cảnh nào, người đă giác ngộ tức khắc phản ứng theo đúng tâm giác ngộ của ḿnh, không cần suy nghĩ, không cần lư luận. Nếu c̣n phải suy nghĩ, lư luận, th́ tức là chưa giác ngộ. Ví dụ một thiền sư hỏi : "Con chó có Phật tính không ?" Nếu thiền sinh phải suy nghĩ rồi mới trả lời, th́ dù trả lời đúng, công án đó cũng kể như là một cuộc thử thách thất bại đối với hắn. Lại một tỉ dụ gần với chúng ta hơn : Khi ḿnh nghĩ đến con cháu, họ hàng ở xa xôi mà thương nhớ chúng, th́ công phu tu tập của ḿnh về hai chữ Sắc Không chưa được thành tựu.

3) Xin nhắc lại rằng, trừ vài trường hợp hi hữu như trường hợp của lục tổ Huệ Năng, sự mở Tuệ nhăn thường chỉ đạt được sau một thời gian khổ luyện lâu dài, trong đó trí óc vận dụng mọi khả năng suy nghĩ để cố gắng xuyên qua các hiện tượng mà nh́n thấy bản thể. Đó là tác dụng và lư do của các công án cổ thời. Không có thiền sư chỉ dậy, chúng ta phải tự lựa chọn những đề tài suy nghĩ có tác dụng tương tự các công án, nhưng không đặt dưới h́nh thức kỳ bí cổ quái nữa. Và chúng ta cố gắng t́m hiểu cho tới khi không c̣n chút hồ nghi nào trong ḷng. Nếu quá dễ dăi chấp nhận những lời diễn giải trong các kinh sách hoặc các bài thuyết pháp, không tự ḿnh cố gắng biến các giáo lư thành máu thịt của ḿnh, th́ chẳng đi đến đâu cả. Có thái độ thụ động như thế, ta có thể là một tín đồ ngoan ngoăn, một Phật tử trung kiên, nhưng chắc chắn không thể kiến tánh được, không thể thành Phật được.

Sau khi đă nhận định sự cần thiết phải tự ḿnh t́m hiểu, vấn đề được đặt ra là nên chọn những đề tài nào cần t́m hiểu. Mục tiêu kiến tánh, mở Tuệ nhăn, tuy có một, nhưng có thể có nhiều con đường dẫn tới và mỗi con đường có những mốc chặng đường khác nhau. Ví dụ đi đường bộ từ Saigon lên Đà Lạt qua ngả Blao th́ có những chặng Định Quán, Blao, Djiring, Liên Khàng. C̣n qua ngả Nha Trang th́ có những chặng Phan Thiết, Phan Rang, Nha Trang Belle-Vue. Do đó mà những mốc tŕnh bầy dưới đây chỉ là những mốc do thuật gỉa đă lựa chọn cho ḿnh, c̣n độc gỉa có thể chọn những mốc khác.

I. T́m hiểu Ta.

Ai cũng biết rằng Ta gồm có một phần vật chất thường gọi là Thân, nhà Phật gọi là Sắc, và một phần tinh thần gọi là Tâm, nhà Phật gọi là Thọ, Tưởng, Hành, Thức.

A. Thân thay đổi rất nhiều từ lúc sơ sinh đến lúc nhập quan. Giữa một đứa bé bụ bẫm, một thanh niên tráng kiện, và một cụ già lưng c̣ng đầu bạc, đâu có cái ǵ là h́nh hài cố định ? Khoa học lại c̣n cho ta biết rằng mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút, trong cơ thể ta có vô vàn tế bào bị già cỗi, bị loại ra ngoài, và được thay thế bằng những tế bào mới. Không những vô thường, thân cũng vô ngă nữa. Như tu sĩ Nagasena trả lời cho vua Milinda, người Nagasena chỉ là một mớ da, thịt, xương, v.v. chẳng một cái nào đó là Nagasena cả. Tiến lên một bước nữa, Phật giáo bảo rằng da, thịt, xương cũng không có nốt, chỉ là do tứ đại (địa, thủy, hỏa, phong) nghĩa là bốn yếu tố đặc,lỏng, nóng, động, tạm hợp mà thành rồi lại tan ră, chẳng cái nào là của ta cả.

B. Tâm cũng vô thường như Thân, v́ ta khi vui khi buồn, khi nghĩ thế này, khi nghĩ thế khác. Nhà Phật gọi các t́nh cảm và tư tưởng đó là Tâm sở. Như các tế bào của thân thể, những tâm sở cũng sinh sinh diệt diệt luôn luôn. Tâm lại c̣n vô ngă nữa, cứ xét việc này đủ biết : Chúng ta là những kẻ trung b́nh, không hẳn gian ác hoặc anh hùng. Vậy mà đôi khi cũng có những ư kiến tham tàn như Tào Tháo, Tần Cối, và khi đọc sử cũng thấy tâm hồn sôi sục với những ư định vá trời lấp biển như những sự nghiệp anh hùng của Hưng Đạo Vương, Lê Lợi. Chúng ta cũng không hẳn ti tiện hoặc tao nhă, vậy mà khi xem các tiểu thuyết khiêu dâm, ta cũng có những dục vọng dâm tà như hồ ly tinh trong truyện Liêu Trai, và khi ngâm nga các bài cổ văn, ta cũng có những tư tưởng tao nhă thoát tục như Lư Bạch, Bà huyện Thanh Quan. Làm ǵ có cái tâm nhất trí, riêng của một ḿnh ta ?

C. Ngoài Thân Tâm vô thường vô ngă, c̣n có cái ǵ trong Ta không ?

Trên kia chúng ta đă một mặt nhận xét rằng cả Thân và Tâm đều vô thường và vô ngă. Vậy cái gọi là Ta thật ra chẳng có ǵ sao, chỉ là con số không hay sao ? Hoặc trái lại, theo sự tin tưởng của một số đông, ngoài thân tâm ta c̣n có một cái ǵ linh thiêng, thường được gọi là Hồn. Và từ muôn thủa nhân loại đă không ngớt băn khoăn về vấn đề cổ điển : Có linh hồn bất diệt không ?

Tiện đây, trước khi bàn về vấn đề đă nêu, xin mở một dấu ngoặc. Theo sự giảng giải của đạo Phật, th́ không có một thực tại Linh hồn bất di bất dịch nào cả qua các kiếp luân hồi. Ví dụ tên gian thần Tào Tháo đời Hán, không phải đời đời kiếp kiếp vẫn giữ cái linh hồn gian ác đó đâu, không có linh hồn bất diệt Tào Tháo nào cả, v́ tâm cũng vô ngă như thân, cái A Lại Da Thức của hắn, tùy theo các nghiệp tạo ra trong các kiếp kế tiếp mà thay đổi, có thể kiếp này là một người gian ác, kiếp sau là ngạ quỷ chịu h́nh phạt nặng nề, kiếp sau nữa là một người nữ nghèo khổ nhưng lương thiện rồi kiếp sau nữa là bậc anh hùng vị quốc vong thân Nhạc Phi đời Tống cũng chưa biết chừng. Vậy ta không nên đặt vấn đề dưới h́nh thức : "Có linh hồn bất diệt không ?" mà chỉ đặt vấn đề dưới một h́nh thức không tiên quyết, cho phép ta sẽ t́m một danh từ thích hợp hơn sau này, khi ta đă hiểu rơ vấn đề hơn. Là : "Ngoài thân tâm vô thường và vô ngă, có một cái ǵ siêu h́nh trong Ta không ?"

Hiển nhiên đây là một vấn đề siêu h́nh, không thể giải quyết được bằng lư luận, mà chỉ có thể t́m hiểu bằng chứng nghiệm bản thân mà thôi. Thuật gỉa c̣n nhớ rằng khi theo học lớp Triết của chương tŕnh trung học Pháp, đă có học vấn đề đó rồi, và thấy những lư lẽ mà các triết gia Âu Tây đưa ra vừa tế nhị quá, lại vừa máy móc quá, không thỏa măn ḿnh một chút nào. Vậy tốt hơn hết là chứng nghiệm bản thân, nhưng chứng nghiệm cách nào ?

1) Chúng ta hăy tọa thiền, tĩnh tâm và nhận xét trước hết về cái Thân của ta. Có người tin tưởng rằng cái thân vật chất là thực tại duy nhất, rằng Ta là thân thể, rằng ư thức về ta xuất hiện trong bộ óc khi ta chào đời và biến mất khi ta mệnh vong, khi thân thể tan ră. Họ nói : tư tưởng, t́nh cảm chỉ là phó sản của bộ óc, cũng như mật là phó sản của gan.

Nhưng có nhiều sự kiện rơ ràng trái ngược với luận điệu đó, tỏ rằng cái ư thức về ta có thể tách rời khỏi thân thể :

a) Trong giấc ngủ say không có mơ mộng, ta không c̣n trông thấy, nghe thấy ǵ nữa, có thể nói là cái ư thức về ta đă biến mất, đi đâu th́ không biết, nhưng chắc chắn là không c̣n ở trong thân nữa. Hơn thế nữa, ta lại lấy trường hợp một người chiến binh phải chiến đấu gian khổ trong mấy ngày đêm liền, rồi bị thương, ngă gục xuống và nằm mê man bất tỉnh. Rồi trong giấc ngủ như chết đó, hắn được khiêng về nhà thương, giải phẩu, gắp đạn ra khỏi vai, cưa chân, mà vẫn bất động. Vài ngày sau hắn mới tỉnh dậy, trong trường hợp này, rơ ràng cả bộ máy thần kinh cũng bị tê liệt, chứ không riêng ǵ ngũ quan, thế nhưng khi hắn tỉnh dậy th́ lại có ngay ư thức về cái Ta của hắn.Vậy trong khi hắn bị thương và ngủ say như chết, ư thức về tên tuổi hắn, về cuộc đời của hắn, đă rời khỏi thân thể hắn, nhưng không hề mất đi, vẫn c̣n tàng ẩn ở một nơi nào đó, ở đâu th́ không biết, nhưng nhất định là không ở trong bộ óc đă bị tê liệt.

b) Ta lại lấy trường hợp những người đă chết đi và sống lại được kể trong cuốn Life After Life của bác sĩ Raynaud A. Hoody, có những người đă chết thực sự, mũi ngừng thở, tim ngừng đập, mạch ngừng chạy. Trong khi đó th́ vía phách của họ phiêu lưu đây đó, có người gặp thần tiên, có người đi vào một con đường hầm tối om rồi tới một nơi có ánh sáng chan ḥa, đầy hoa thơm cỏ lạ. Rồi sau vài giờ vía phách đó trở lại, trông thấy tử thi nằm trên giường, nhập vào đó, và sống lại. Rồi họ kể cho bác sĩ nghe những điều họ đă thấy ở thế giới bên kia, tỏ ư nuối tiếc cái cảnh thần tiên đă gặp trong thời gian tạm chết.

Những trường hợp chết đi sống lại như thế không phải là hiếm, và đă được bác sĩ Hoody nghiên cứu tỉ mỉ, với đầy đủ cẩn thận khoa học tinh vi để đề pḥng mọi gian dối, bịa đặt. Và dù ta có cho rằng những cảnh thấy ở thế giới bên kia không có thật, chỉ là những h́nh ảnh tưởng tượng, nhưng vẫn c̣n một sự kiện không thể phủ nhận được. Là : những người đó quả thật đă chết, v́ tất cả các bộ máy hô hấp, tuần hoàn, thần kinh của họ đều đă tê liệt. Và kết luận hiển nhiên là trong Ta có một cái ǵ huyền diệu gọi là vía hoặc phách, hoàn toàn tách biệt với thân thể, có thể xuyên qua tường và mái nhà, bay bổng lên cao như gió thoảng, và tồn tại sau khi thân thể chết, ít nhất là trong một vài giờ.

2) Chúng ta vừa vượt qua một chặng đường, và đi tới nhận định chắc chắn rằng thân ta không phải gồm tất cả Ta, c̣n một cái ǵ khác nữa, có thể tách biệt khỏi nó. Bây giờ chúng ta bước vào chặng đường thứ hai, tiếp tục tọa thiền, tĩnh tâm và nhận xét về các t́nh cảm vui buồn, yêu ghét, và các tư tưởng hằng ngày ta vẫn có về chính trị, kinh tế, gia đ́nh, xă hội, v . v . Các cái đó đă phải là cái Thực Ta chưa ? Nhiều người nghĩ như vậy, V́ Ta là cái ǵ nếu không phải là ư thức về Ta, về tên tuổi ta, địa vị ta trong gia đ́nh, xă hội, về cuộc đời của ta, gọi chung là tâm tư ? Nhận xét đó rất đúng. Ta là con người có ư thức, có tâm tư, hơn là con người vật chất, vô tri như cây cỏ. Nhưng chỉ mới đúng một nửa, v́ có nhiều lư lẽ chứng tỏ rằng cái tâm tư đó có thể bị tê liệt trong một thời gian rồi lại tái xuất hiện, khiến cho ta phải kết luận rằng nó chưa phải là chính Ta, cái thực thể liên tục không ngừng :

a) Trước hết, ta có thể tái dụng những trường hợp đă nêu trên về giấc ngủ say như chết của người thương binh và về hiện tượng xuất hồn của người chết đi sống lại. Trong những trường hợp đó, không những thân thể tê liệt, mà cả tư tưởng, t́nh cảm thường ngày cũng biến mất, nhưng vẫn c̣n một cái ǵ gọi là vía, phách, hoặc hồn, có khi lạc vào một thế giới khác, có khi chẳng đi đâu cả, nhưng lúc tỉnh dậy th́ lại nhập vào Ta, tâm tư có thể tạm thời mất đi, nhưng cái Ta không hề mất đi.

b) Ta lại c̣n có thể nhận xét sâu sắc hơn về những tâm sở của ta, vô thường và vô ngă. Khi ta cảm thấy vui, th́ ai vui ? chính là ta. Khi ta buồn, th́ ai buồn ? cũng chính là ta. Và khi ta nghĩ rằng nam nữ b́nh quyền là đúng, th́ ai nghĩ vậy ? chính là ta. Và khi ta nghĩ rằng nam nữ b́nh quyền là sai, th́ ai nghĩ thế ? vẫn cũng là ta.

Vậy phải kết luận rằng những tâm sở nhiều vô kể kia, sinh sinh diệt diệt chỉ là những biểu lộ muôn h́nh và có thể trái ngược nhau, những tướng, dụng của cái Thực Ta duy nhất. một ví dụ đă cũ nhưng rất đúng, ta có thể nói : Cái thân của ta là một lữ quán, lúc đầu c̣n nhỏ bé, rồi khuếch trương lên, xây thêm nhiều pḥng ốc, và cuối cùng xiêu vẹo, bị phá đi để xây dựng một cái lữ quán mới. Nó không phải là ông chủ cái lữ quán đó. Cái tâm sở của ta là những lữ khách tới trọ, một vài giờ, một vài ngày, rồi lại ra đi; chúng cũng không phải là chủ nhân ông cái lữ quán đó. Chủ nhân cái lữ quán đó là cái Thực Ta, cái Chơn Ngă, bất sinh bất diệt, trước khi làm chủ cái lữ quán đó th́ đă làm chủ một lữ quán xa xưa, và sau khi cái lữ quán kia đổ nát th́ sẽ lại làm chủ một lữ quán mới, măi măi vô cùng tận. Xin nhắc lại rằng chủ nhân đó vẫn chỉ có một, nhưng qua nhiều kiếp luân hồi th́ có thể thay đổi cả h́nh hài lẫn tâm tư. Cũng ví như cái là cái quán bằng tre nứa hồi 50 năm về trước là của ông Nguyễn văn Cột, chủ cái quán bằng gạch ngày nay là ông Nguyễn văn Kèo, con ông Nguyễn văn Cột, và có thể chủ cái lữ quán tương lai, có nhiều tầng lầu tối tân sau này, sẽ là cô Nguyễn thị Lan, con ông Nguyễn văn Kèo ? Ông Cột, ông Kèo và cô Lan rất khác nhau về tâm tính, dù cho các vọng tâm qua các kiếp kế tiếp, nhưng đều chung một gịng máu họ Nguyễn dù cho bản chất Chơn Ngă liên tiếp tồn tại qua các kiếp luân hồi.

Tới đây, chúng ta đă có một chút hiểu biết chơn chánh về thực chất củaTa, nó không phải là Thân, nó cũng chẳng phải là cái giả tâm tức là các tâm sở sinh sinh diệt diệt, mà là một cái ǵ kỳ diệu, không hề mất đi khi ta ngủ say, ốm mê man hoặc chết tạm (và có thể tồn tại măi măi qua các kiếp khác; điều này ta sẽ bàn đến sau). Cái đó gọi là Chơn Ngă, hoặc Chơn Tánh, hoặc Phật Tánh, hoặc Tia Sáng thánh thần (étincelle divine) cũng được. Ta chỉ mới đi tới kết luận chắc chắn rằng ngoài Thân và Tâm, là những tướng, c̣n một bản thể, thế thôi. C̣n cái Bản Thể đó ra sao, sinh ra Thân và Tâm như thế nào, có bất sinh bất diệt không, có chu biến trong khắp vũ trụ không, th́ ta chưa vội bàn đến.

Vậy ta hăy tạm để ra bên vấn đề bản thể của Ta để quay sang suy nghĩ về một vấn đề khác liên quan đến nó, tức là vấn đề bản thể của Vũ Trụ (trong đó có ta), may ra có thể soi sáng được vấn đề bản thể của ta.

II. T́m hiểu Vũ Trụ. A. Nguyên liệu tối hậu của Vũ Trụ theo khoa học. Trong Vũ Trụ, ngoài Ta ra c̣n có người khác, các sinh vật khác (gồm có thực vật và động vật), và các vô sinh vật (khoáng chất). Khoa học cho ta biết rằng :

1) Về phương diện nguyên tố thành phần, tất cả đều họp thành bởi các nguyên tử, dù là sinh vật hoặc vô sinh vật, và tất cả các nguyên tử đều tạo bằng vài hạt vật chất có điện âm (électrons), hoặc điện dương (protons), hoặc trung ḥa (neutrons), v.v.

2) Về phương diện cơ cấu (structure), những sinh vật họp thành bởi những tế bào gồm nhiều nguyên tử đă được kết hợp theo một mẫu riêng, c̣n các vô sinh vật th́ không.

3) Về phương diện tâm thức, th́ loài người có tâm thức tiến bộ hơn cả, c̣n những loại động vật khác th́ chỉ có những bản năng, và các thực vật c̣n kém nữa, chỉ có những khuynh hướng để sinh tồn và bảo toàn gịng giống (ví dụ : hướng dương, nở hoa, sinh trái). Đến các vô sinh vật th́ thiếu cả khuynh hướng sinh tồn, hoàn toàn thụ động chịu các áp lực của hoàn cảnh.

4) Tiến hóa luận (evolutionnisme) th́ cho ta biết rằng các loại sinh vật tiến hóa từ loại đơn giản nhất là protozaires chỉ có một tế bào, tới loài người, có triệu triệu tế bào, khác nhau để dễ phân công, thành những tế bào xương, tế bào bắp thịt, tế bào thần kinh, v . v .

Vậy mặc dầu có những khác biệt giữa các vật trong Vũ Trụ, ta có thể kết luận rằng tất cả sinh vật và vô sinh vật, đều xây dựng bằng một nguyên liệu duy nhất, nhưng có thể có nhiều tŕnh độ tiến hóa khác nhau, thấp nhất là ở các vô sinh vật, và cao nhất là ở loài người.

B. Bản thể của Vũ Trụ theo các tôn giáo và triết học.

Nguyên liệu tối hậu của vạn pháp đă được khoa học chứng minh là đồng nhất, th́ ta có thể kết luận rằng chúng đồng thể, cũng như khi ta thấy một loạt xe hơi cùng một kiểu th́ kết luận rằng chúng cùng từ một hăng sản xuất mà ra. Cái bản thể đó, như một đoạn trên đă nói, hoàn toàn bất khả tri đối với khoa học. Nhưng các tôn giáo và triết học đă cố gắng đưa ra một số giải đáp để cắt nghĩa bản thể là ǵ, và do quá tŕnh nào mà nó biến thành vạn pháp, nghĩa là từ cái Một biến thành cái Nhiều.

1) Một số tôn giáo hữu thần, như Thiên Chúa giáo, đưa ra một giải pháp rất giản dị : uyên nguyên của Vũ Trụ là Thượng Đế. Ngài là đấng Tạo Hóa (créateur) toàn năng, muôn vật trong Vũ Trụ chỉ là những sở tạo (créature). Chính Thượng Đế đă tạo ra mọi vật, từ các vật vô tri như đá, sắt, vàng, cho đến các sinh vật như cây tùng, cây bưởi, con ḅ, con người. Sự tạo ra Vũ Trụ là một phép lạ; sự hiện hữu của con người có tư tưởng, có t́nh cảm, cũng là một phép lạ, một cái ǵ thiêng liêng, thánh thần chỉ nên chấp nhận là sự ban ơn của Thượng Đế, chứ không thể t́m hiểu. Và như vậy, bản thể của Vũ Trụ là ǵ không thành vấn đề, đối với tín đồ của tôn giáo đó. Họ chỉ trả lời : đó là ư muốn của Thượng Đế, đó là phép lạ của Thượng Đế.

2) Một số tôn giáo khác và triết học, trái lại, không chấp nhận giải đáp Thượng Đế, không tự hỏi sự tạo ra Vũ Trụ có cần đến một phép lạ thánh thần nào không, mà nh́n nhận luôn sự hiện hữu của Vũ Trụ là một sự đă rồi, không thể chối căi được. Và họ phỏng đoán rằng Vũ Trụ khởi đầu là một khối hỗn mang, độc nhất, mà Nho giáo gọi là Thái cực, Lăo giáo gọi là Đạo, và Phật giáo gọi là Chân Như. Từ cái khối hỗn mang nguyên thủy đó, cái Một tự phản chiếu, rồi v́ sự phản chiếu đó mà thành ra Chủ Thể và Khách Thể, cũng ví như một người đứng giữa quăng không th́ chỉ có một ḿnh, nhưng khi soi ḿnh vào mặt nước th́ thấy vừa có ḿnh, vừa có h́nh bóng ḿnh trên mặt nước. Cái Khách Thể mới hiện ra đó là Vạn pháp trong Vũ Trụ, gồm cả các vật hữu h́nh và các thứ vô h́nh (thọ, tưởng, hành, thức), c̣n cái Chủ Thể vẫn là Bản Thể của Vũ Trụ, bàng bạc khắp nơi và khắp thời.

Triết gia Hegel, tổ sư của Biện chứng pháp, đưa ra một yếu tố mới để làm sáng tỏ vấn đề hơn, là yếu tố mâu thuẫn nội bộ (contradiction interne)có sẵn trong mọi sự vật, và cả trong bản thể nguyên thủy. Ông chủ trương rằng có một Thực Tế Tuyệt Đối mà ông gọi là ư Tưởng Tuyệt Đối, nó trở lại soi sáng suy tư về chính nó. Sự hồi quang phản chiếu đó đă khiến cho trạng thái thuần nhất của ư Tưởng bỗng đột khởi một mầm mâu thuẫn. Và chính mầm mâu thuẫn này là động cơ xô đẩy ư Tưởng phải rời bỏ trạng thái thuần nhất nguyên thủy, phải tự phóng khí (auto-aliénation de l'esprit) để bước vào lịch tŕnh hiện-tượng-hóa qua nhiều giai đoạn : khoáng vật, thực vật, động vật, rồi đến người.

Nói tóm lại, không những bản thể của Vũ Trụ mà cả vấn đề Sáng Thế (Création de l'Univers) vẫn c̣n là một vấn đề bất khả tri đối với khoa học, c̣n các tôn giáo và triết học chỉ có thể phỏng đoán mà thôi, v́ nó đă là giới hạn giữa lănh vực của tâm thức phàm trần và lănh vực của trí Bát Nhă siêu phàm. Vậy hăy tạm để lại vấn đề bản thể của Vũ Trụ (trong đó có Ta) để trở về nhận xét các pháp trong Vũ Trụ.

C. Tính cách vô thường, vô ngă và y tha khởi của các pháp.

1) Trước hết, ta nhận thấy rằng cũng như Thân tâm ta, các pháp khác cũng vô thường và vô ngă. Sông bồi núi lở, đó là chuyện thường có thể thấy trong một đời người. Đến cả các v́ sao trên bầu trời, tưởng như vĩnh viễn, Thiên văn học cũng cho ta biết rằng chúng cũng sinh trưởng, hoại trong vài tỷ năm. Hoặc có người hỏi rằng : Đă không thể thấy được những biến đổi đó trong một đời người th́ làm sao dám kết luận táo bạo như thế ? Câu trả lời rất giản dị : Ta đi vào một khu rừng, thấy các cây có cái mới mọc, có cái đang lớn, có cái già lăo vài trăm năm, có cái đă mục nát. Vậy tuy chỉ nh́n một cây cổ thụ, ta cũng có thể chắc chắn rằng nó đă có lúc bé, rồi lớn lên, rồi thành cây cổ thụ ngày nay, rồi một ngày kia sẽ mục nát và đổ xuống. Thiên văn học cũng vậy, rất ít khi được trực tiếp chứng kiến một ngôi sao nổ tung, nhưng nh́n thấy đủ mọi loại sao, trắng có, đỏ có, xanh có, bèn suy luận rằng chúng đă qua và sẽ qua các thời kỳ sinh diệt.

2) Ta lại nhận xét thêm rằng mỗi pháp cá biệt hiện hữu v́ có sự hiện hữu của các pháp khác. Ví dụ sở dĩ có mưa là v́ có nước các sông, hồ, bể bốc lên hơi nước dưới sức nóng của mặt trời, rồi gặp gió lạnh ở nơi khác thổi tới mà hơi nước đọng lại thành giọt nước li ti, rồi những giọt nước đó thu hút vào nhau tới một kích thước nào đó đủ to và đủ nặng để rơi xuống thànhƠ mưa. MộtƠ ví dụ khác phức tạp hơn : Cái nhà ta đang ở, sở dĩ có là v́ đă có cây mọc ở trên rừng, có người đốn cây, có người cưa xẻ nó, biến nó thành các khung cửa, có xă hội đă dậy nghề cho người thợ đốn cây và thợ mộc, đă cung cấp cơm áo và dụng cụ búa, cưa cho họ. Các vật liệu khác để làm nhà như sắt, gạch, xi-măng, thủy tinh, cũng đ̣i hỏi một chuỗi điều kiện tương tự. Con người cũng vậy, dù là con người thượng cổ ăn lông ở lỗ, cũng không thể hiện hữu được nếu không có các loại rau quả ăn được, và các giống súc vật có thể bắt để ăn thịt. Nói chi đến con người ở thế kỷ 20 này, bị lệ thuộc muôn ngàn điều kiện khác : điện, săng, tổ chức thương mại, giao thông, giáo dục, hành chánh, tư pháp, v . v .

Do đó đạo Phật bảo rằng các pháp đều y tha khởi, nghĩa là sự hiện hữu của pháp nào cũng nhờ vào sự hiện hữu của các pháp khác. Nghĩa là Y tha khởi cũng là vô ngă, cũng như Vô ngă chỉ là Vô thường trong không gian. Và từ ba nhận xét:

1. Ta vô thường và vô ngă.
2. Vạn pháp khác cũng vô thường và vô ngă.
3. Mỗi pháp y vào các pháp khác mà hiện hữu.

Ta đi đến kết luận : Tất cả các pháp đều chỉ là dụng hay tướng muôn h́nh vạn trạng của một bản thể chung. Đến đây hết phần suy tư, và bắt đầu phần sau và cũng là phần chính của công phu mở Tuệ nhăn : Nhập vào ḍng hiện sinh của Vũ Trụ, ḥa cái Tiểu ngă của ḿnh vào cái Đại ngă của Vũ trụ.

III. Ta là Một với Vũ Trụ.

Ta có thể kinh nghiệm được sự kiện đó không, sự kiện "Nhập vào ḍng hiện sinh của Vũ Trụ", để thấy ḿnh là Một với Vũ Trụ ? Mới nghe qua tưởng như đó là một sự kiện mơ mộng, tưởng tượng, huyền bí; nhưng thực ra nó chỉ là một trạng thái tâm lư như vui, buồn, yêu thương, hận thù, không khác ǵ cả. Có khác chăng là nó tự phát (spontané), khó tái lập theo ư muốn hơn các trạng thái tâm lư kia. Ví dụ ta hận thù các tên chính khách vô tài, vô hạnh đă đưa đất nước ta đến cảnh điêu tàn ngày nay. Mỗi khi ta đọc một bài báo kể lại sự sụp đổ nhục nhă của miền Nam, cái hận thù đó có thể bừng bừng khơi lại trong tâm ta. Nhưng trạng thái "nhập vào ḍng hiện sinh của Vũ Trụ" th́ bất thường hơn, có khi ḿnh không chờ đợi nó mà nó tự nhiên đến, trái lại có khi ḿnh chờ đợi, mong mỏi nó, t́m lại những cảnh cũ, hoặc nhớ lại những sự việc đă khích động nó một lần trước, th́ nó lại không xuất hiện nữa. Tuy vậy, xin nhắc lại : Sự nhập vào ḍng hiện sinh của Vũ Trụ để thấy ḿnh là Một với Vũ Trụ, cũng chỉ là một trạng thái tâm lư, không có ǵ tuyệt đối khác biệt. Và tuy nó xuất hiện bất thần, không lệ thuộc vào một điều kiện nào cả, nhưng cũng có vài hoàn cảnh giúp nó dễ dàng xuất hiện hơn. Tôi nói : dễ dàng hơn, thế thôi, chứ không nói : chắc chắn sẽ xuất hiện đâu. Và xin thuật lại sau đây vài trường hợp trong đó thuật gỉa h́nh như đă chứng nghiệm bản thân ḥa đồng với vạn pháp.

A. Kinh nghiệm khổ đau. Xin nói ngay rằng thuật gỉa sinh trưởng trong một gia đ́nh trung lưu, lúc tuổi trẻ được học hành đầy đủ, rồi sau thi đỗ vào ngạch tây sở Đoan, lương cao bổng hậu. Ngoài một hai điểm khả thủ là bẩm tính thích đọc sách và ḷng nhân hậu đối với thuộc cấp ở sở và người làm ở trong nhà, c̣n rất nhiều ham mê vật chất như tiệc tùng, xem hát bóng, tuồng chèo, và đánh mạt chược. Và nhất là, cho tới tuổi ngoài 30, chưa hề có một sự hiểu biết trực tiếp về những nỗi thống khổ của dân quê sống trong cảnh bùn lầy nước đọng, dưới ách của cường hào ác bá và thực dân.

1) Điều thứ nhất đánh bật thuật gỉa ra khỏi cái vỏ duy kỷ đó là cuộc đói mùa đông 1944-1945. Mỗi sáng đi từ nhà tới sở, gặp hàng chục xác chết khô đét, đen sạm, không c̣n ra h́nh người, nằm la liệt khắp vỉa hè, thảm cảnh đó bỗng nhiên thức tỉnh thuật gỉa rằng ở đời không sung sướng như ḿnh vẫn tưởng, rằng có biết bao khổ đau mà ḿnh vô t́nh không biết tới, rằng khổ đau của người khác khiến ḿnh không thể nào an vui một cách ích kỷ được.

2) Cuối cùng, đến biến cố 1975, phải bỏ quê hương đi t́m tự do trên biển cả, tưởng thập tử nhất sinh, không ngờ lại gập tầu Mỹ cho lên. đảo Wake hai tháng, rồi sau rời đến trại Indiantowngap thuộc tiểu bang Pennsylvania. Quốc phá gia vong, sản nghiệp tiêu tan, con cái c̣n vài đứa mắc kẹt ở lại, đến đây mới nhận thấy thấm thía cuộc đời là bể khổ. Cũng may ở trại tị nạn thứ hai có thầy Giác Đức lập chùa tạm, tối tối đều có lễ Phật và giảng kinh. Với tâm lư đau khổ như trên, thuật gỉa đă dễ dàng t́m thấy đường lối giải thoát ở Phật giáo, dễ dàng hiểu được chút ít những giáo lư đạo Phật : Vô thường, Vô ngă, Nhân quả, Nghiệp, Luân hồi, và cả cái khó hiểu nhất là thuyết Sự sự vô ngại và Lư sự vô ngại, khiến ḿnh không những mở rộng ḷng từ bi, thương sót người khác, mà c̣n cảm thấy rằng ḿnh cũng là người khác, cái đau khổ của họ đem lại đau khổ cho ḿnh, cái vui vẻ của họ đem lại vui vẻ cho ḿnh.

B. Kinh nghiệm ḥa đồng với Vũ Trụ.

1) Hồi c̣n ở quê nhà, đi chơi chùa Láng, hồ Tây, băi biển Đồ Sơn, Sầm Sơn, Nha Trang, lăng tẩm của cố đô Huế, có nhiều lần ngồi thừ hàng giờ trên một mỏm đá hay dưới một gốc cây, để ngắm cảnh trời đất bao la. Và ḷng lâng lâng như tan biến vào cái Không của Vũ Trụ, có cảm tưởng rằng ḿnh là chiếc lá đang tung bay theo chiều gió tới núi Côn Lôn, hoặc đợt sóng nhấp nhô trên đại dương tới một núi Tu Di nào.

Nhà ở Saigon có một gác thượng, nhiều đêm yên tĩnh thuật gỉa sau khi đọc các truyện thần tiên như Đông du bát tiên, Tây du, Phong thần, Lục gỉa tiên tung, Thất chân nhân quả, mải mê tới quá nửa đêm, bèn mặc vào người một chiếc áo len, rồi trèo lên gác thượng, ngồi bán ǵa trên chiếc gối đem theo, và nh́n bầu trời đầy sao. Rồi có cảm tưởng rằng đó là những cơi Thiên nói trong kinh Phật hoặc cơi Tiên nói trong các truyện Tầu, nghĩ rằng ḿnh trong một kiếp trước đă từng sinh sống ở đó, nên mới khao khát nó như thế, coi nó là quê hương thật của ḿnh.

2) Ngày nay thân tàn ma dại, muốn đi đâu quá 1, 2 miles là phải nhờ con cái hay bạn hữu chở xe đi. Nhà ở lại không có gác thượng, chẳng bao giờ lại có những buổi ngồi thẫn thờ nh́n ngắm bầu trời bao la trong đêm tối. Không thể tự tiện đi chơi các thắng cảnh nữa, không có cả tủ sách đă hao phí bao nhiêu công của để tom góp, rồi mất một lần ở Hanoi khi ra đi kháng chiến năm 1946, mất lần thứ hai ở Haiphong khi di cư vào Nam năm 1955, lại mất một lần nữa năm 1975 khi phải rời bỏ quê hương.

Tâm tư bứt rứt không ngớt trong mấy tháng đầu tị nạn ở Mỹ. Nhưng rồi dần dần những ư nghĩ thương tiếc, hận thù, hối hận bớt đi. Nhớ lại kinh Hồi dương nhân quả và thiên Thái Thượng cảm ứng, biết rằng trời đất không bất công cũng không vô t́nh, muôn pháp đều bị chi phối bởi luật Nhân Quả, thiện giả thiện báo, ác giả ác báo, không bao giờ sai chạy, chỉ có sớm muộn thôi, hoặc Quả đi liền sau Nhân ngay trong kiếp này, hoặc đến kiếp sau mới phát hiện.

Cuối cùng, đạt tới tâm tư quên cả những giầy ṿ của quá khứ và những lo lắng về tương lai, chỉ sống trong giờ hiện tại thôi, tưởng tượng rằng ḿnh là cây phong ở vườn bên cạnh, cây đào ở vườn trước, chịu nắng ấm gió lạnh qua các mùa, c̣n sống ngày nào hay ngày đó, chết đi th́ lại tái sinh làm cây phong khác, cây đào khác, hoặc một kiếp người khác, cái bản thể của ḿnh bàng bạc khắp nơi và khắp thời gian, bất sinh bất diệt.

Và mặc dầu cái vision đó c̣n cục bộ, chưa hẳn thấy ḿnh là một với Vũ Trụ, nhất là c̣n lúc có lúc không, chưa được liên tục, nhiều khi cái Tiểu ngă c̣n nổi dậy, phân biệt bỉ thử, thiện ác, yêu ghét, nhưng cũng đă hiểu được vài điều dùng luôn làm kết luận.

Kết luận.

1) Phương pháp Thiền tông kiến tánh thành Phật, vừa rất giản dị vừa khó khăn vô cùng.

a) Nó giản dị v́ nói thẳng rằng chúng sinh vốn là Phật tiềm tàng mà không tự biết, chỉ cần bỏ mọi ảo tưởng do thân tâm vô thường và vô ngă sinh ra là tự khắc thành Phật thực sự.

b) Nó khó khăn là v́ từ muôn ngàn kiếp, ta cứ bám vào thức, danh sắc, lục hợp, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, nên mới bị trầm luân trong ṿng sinh tử luân hồi. Phá vỡ được chuỗi xích Thập Nhị Nhân Duyên, tu theo Tịnh Độ tông cũng có thể làm được nếu trong khi niệm Phật nhất tâm bất loạn, cảm thấy giữa ḿnh và Phật có sự hợp nhất hoàn toàn. Được kết quả đó th́ không khác ǵ tu theo Thiền tông, mặc niệm cảm thấy ḿnh là một với bản thể Chân Như của Vũ Trụ, bất sanh bất diệt.

2) Để đạt tới kết quả cảm thấy Vạn pháp nhất thể, bước đầu tiên cho người tu theo Thiền tông hay Tịnh Độ tông là mở rộng ḷng Từ Bi. Kinh Kim Cang dậy : "Các Bồ Tát lớn nên hàng phục cái tâm như vầy : Hết thảy những loại chúng sinh, ta đều làm cho vào Vô dư Niết Bàn mà được diệt độ. Diệt độ vô lượng chúng sanh như thế, mà không chấp có chúng sanh được độ, có ḿnh độ chúng sanh".

Đem áp dụng bài học đó ra, tuy ta chưa là Bồ Tát, nhưng vẫn có thể mở rộng ḷng từ bi đối với mọi người khác, kể cả những người đă làm hại ta, và đối với mọi loài súc vật nuôi trong nhà hay dă thú. Dần dần bớt ăn thịt đi, và trước hết bỏ cái tṛ đi săn, lấy đau khổ của chim muông để t́m một thú vui dă man. Đối với người, không nên có thành kiến, chớ vội chê người mà mọi người đều chê, chớ lấy bụng tiểu nhân mà đo ḷng thiên hạ. Biết đâu trong hành vi xấu xa của họ lại chẳng có một ẩn ư thiện nào mà ḿnh chưa hiểu ? Nếu quả thật thấy họ đă sai quấy, th́ chỉ nên biết để bụng thôi, và dùng gương xấu đó mà tự răn ḿnh.

3) Để giúp cho tâm từ bi tiến lên thành tâm tư siêu phàm của hàng Bồ Tát phải bỏ tất cả các tướng Ngă, tướng Nhân, tướng Chúng sanh, tướng Thọ giả. Phương pháp kiến hiệu nhất là Tọa Thiền, bí quyết của nó có thể tóm tắt như sau :

a) ư thức rơ ràng ḿnh đang làm ǵ trong mỗi công việc, dù là viết văn, đào đất, trồng cây, rửa mặt, quét nhà, không để cho những loạn tưởng xâm nhập vào công việc đang làm. Ví dụ đang trồng cây th́ chỉ nghĩ đến trồng cây, chớ có nghĩ lan man đến những cây cỏ bên nước nhà, những vườn hoa t́nh tứ dưới mưa xuân ở gần làng Bưởi, những chợ hoa rực rỡ dưới ánh sáng điện trong những đêm cận Tết ở đại lộ Nguyễn Huệ, hoặc chớ nghĩ đến cây này sẽ lớn lên, mang quả, không biết lúc đó ḿnh c̣n sống không để ăn quả cây ḿnh đang trồng đây ?

Nhất là khi đang tọa thiền th́ lại càng cần ư thức ḿnh đang tọa thiền. Điều thân th́ quán tưởng đầu và thân đă vững vàng, ngay ngắn chưa, điều tức th́ quán tưởng hơi thở, hít vô th́ quán tưởng thanh điện đầy bụng rồi tràn lên phổi và vào tất cả các tế bào trong thân thể, thở ra th́ quán tưởng trọc điện trong người bị tống ra ngoài qua xoáy đầu.

Sự ư thức đó mới nghe th́ h́nh như rất tầm thường và dễ làm, nhưng thật ra nó quan trọng vô cùng và cũng rất khó thực hiện bền bỉ. Thành công trong việc quán tưởng điều thân và điều tức là khởi điểm đi tới thành công tối hậu của công phu tu thiền.

b) ư thức về công việc ḿnh đang làm rất khó giữ bền bỉ, v́ luôn luôn có những loạn tưởng xâm nhập, phá vỡ công phu quán tưởng. Vậy phải làm thế nào ? Cứ b́nh tĩnh nhận diện chúng, tự khắc chúng sẽ tan biến đi. Chỉ cần nhận diện chúng thôi, không nên cố gắng xua đuổi chúng, v́ có sự cố gắng th́ sẽ có phản động, cũng như đắp đê ngăn sông th́ nước sẽ dâng cao và phá vỡ đê. Tốt hơn là khơi những chi nhánh cho nước thoát dễ dàng ra biển. Cũng vậy, mặc cho những loạn tưởng xâm nhập, cứ thản nhiên nghĩ đến thở ra hít vô, bóp bụng và ph́nh bụng, tự khắc các loạn tưởng sẽ biến mất.

Nói một cách khác, ta phải đạt tới tŕnh độ sự quán tưởng thành một công việc thường xuyên tự nhiên, một fonction organique, như quả tim nhịp nhàng bóp vào nở ra, đâu có cần đến ư chí của ta ?

c) Tâm đă định rồi, đă được thoải mái rồi, th́ mới đạt được trạng thái hư không, và tâm có hư không mới cảm giác được bản thể Chơn không của Vũ Trụ, của vạn pháp, của thân tâm ta. Và lúc mà ta tưởng không nh́n thấy ǵ th́ chính là lúc mà ánh sáng có thể đột nhiên bừng phát hiện. Đó chính là ư nghĩa hai câu sau đây mà một ông bạn túc nho đă trích trong Thái Sơn kinh và Thạch Cốc kim cương kinh, và có nhă ư viết tặng thuật giả :

Tâm chí hư thời năng thụ ích
Mục đương ám xứ năi sinh minh.

3-Tịnh Độ tông

A- Trên căn bản, không khác ǵ Thiền tông.

V́ niệm Phật, cũng như ngồi thiền, chủ ư là nhất tâm bất loạn, là định tâm vào h́nh ảnh đức Phật, hoặc vào niềm an lạc vô cùng của cơi Phật. Nếu một tâm chẳng loạn, dù chẳng suy nghĩ về giáo lư đạo Phật, cũng lo ǵ chẳng ngộ ? Cổ Đức có kệ rằng :

Tham thiền niệm Phật bổn lai đồng
Khán phá phân minh tổng thị không.
Công đáo tự nhiên toàn thể hiện,
Xuân lai ư cựu bách hoa hồng

nghĩa là :

Tham thiền niệm Phật lư vốn đồng
Rơ ràng xem kỹ thẩy đều không.
Công đến tự nhiên toàn thể hiện,
Xuân về như trước trăm hoa hồng.

B- Nhưng phép tu có khác:

1/ Một là Tịnh Độ tông muốn nhờ sức giúp đỡ của Phật để bồi bổ tự lực của hành giả. Thật vậy, tuy Phật nói : Phật và Tâm không hai, ngoài tâm không Phật, nhưng trên thực tế chúng sinh căn cơ bậc trung, bậc hạ không thể hiểu và dám nhận tâm ḿnh là Phật. Nên phải dùng phương tiện niệm Phật để cột tâm vào một duyên. C̣n đối với bậc thượng trí, th́ quán thực tướng của Tâm hay quán Phật cũng vậy.

2/ Hai là Tịnh Độ tông cho rằng việc quán thật tướng của Tâm theo phương pháp của Thiền tông khó quá. Trái lại, niệm Phật rất dễ dàng, không cần mệt óc suy nghĩ. Cứ niệm Phật nhất tâm bất loạn, chuyên giữ Phật hiệu trong trí óc, gạt bỏ mọi vọng niệm, th́ như nước khi lóng trong, trăng Phật sẽ tự hiện. Trăng vốn chẳng đến, nhân nước trong mà thấy hiện. Cũng vậy, khi lâm chung thấy Phật nghinh tiếp, tức là tâm hiện Phật.

C- Nhưng có chắc như thế không, có chắc rằng cứ niệm Phật cho đến nhất tâm bất loạn là đủ đế thấy Phật tâm hiển lộ không ?

1/ Chắc, v́ mỗi tiếng niệm Phật là một tiếng chuông, một tiếng nói vô minh của đức Phật A Di Đà nhắc nhở, giữ ǵn ta trên đường đạo pháp. Nếu ta niệm đúng cách (tâm niệm chứ không phải khẩu niệm), nghĩa là biết dùng câu niệm Phật để trau dồi sửa tánh, tà niệm không c̣n phát sanh, tham sân si diệt được, th́ thất t́nh lục dục cũng phải diệt theo, sẽ đắc quả thành Phật. Chừng ấy th́ :

Nhất cú Di Đà vô biệt niệm
Bất lao đàn chỉ đáo Tây phương.

nghĩa là :

Một câu Di Đà không tưởng khác,

Chẳng nhọc khảy tay đến Tây phương.

2/ Chắc, nhưng với điều kiện là hành giả phải có tín tâm thật mạnh, hết sức tin tưởng rằng đức Phật A-Di-Đà sẽ đến đón ta lúc lâm chung, không lúc nào được có một thoáng nghi hoặc. Thế cho nên Tịnh Độ tông thích hợp với những tâm hồn chất phác, ít thắc mắc, chứ những người có óc lư luận, nhất là những người có chút tây học, dù cho nhận biết ưu điểm tuyệt đối của Tịnh Độ tông, cũng khó mà theo pháp môn này. Họ phải suy nghĩ t́m hiểu cái thật tướng của vũ trụ, của tâm họ, nhiên hậu họ mới dốc ḷng tin được. Và một khi họ đă dốc ḷng tin, th́ tất nhiên họ sẽ giác ngộ cao hơn những người kia.

Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh.

Định nghĩa.

Bát Nhă : tiếng Phạn là Prajna, có nghĩa là trí tuệ đặc biệt, khác với :

- tục trí của phàm nhân giỏi về nghệ thuật, thi văn, hoặc khoa học

- trí hữu lậu của bậc ngoại đạo có nhiều phép thần thông

- tiểu trí của bậc tiểu thừa đă thoát khỏi ṿng sinh tử.

Riêng trí tuệ của các vị Bồ Tát mới được gọi là trí tuệ Bát Nhă, v́ nh́n thấu bản thể của mọi sự vật, bỏ hiện tượng giả dối mà đạt tới Chân Không Diệu Hữu.

Ba La Mật Đa : tiếng Phạn là Paramita, nghĩa là đáo bỉ ngạn, đến bờ bên kia là bờ giải thoát, c̣n bờ bên đây là bờ mê muội, nổi ch́m trong sinh tử luân hồi.

Tâm kinh : có thể hiểu là kinh tâm yếu của bộ kinh Đại Bát Nhă. Nhưng cũng có thể hiểu là kinh nói về Chơn Tâm, chứ không phải là kinh nói về ái, ố, ai, lạc, v . v .

Tầm quan trọng của kinh Bát Nhă.

Kinh này rất ngắn, gồm 260 chữ Hán, nhưng là tinh túy của bộ kinh Đại Bát Nhă dày tới 600 quyển. Do đó, nó rất cô đọng, thâm thúy, chỉ đưa ra một số quyết đoán mà không hề giải thích lư lẽ. Người Phật tử phải t́m cho ra lẽ, bởi v́ nếu hiểu rơ kinh này th́ sẽ được kết quả như Quán Tự Tại Bồ Tát, độ nhất thiết khổ ách. Quán Tự Tại Bồ Tát thường được coi là Quán Thế Âm Bồ Tát, nhưng ta có thể mở rộng ra mà nói rằng bất cứ vị Bồ Tát nào đă có thể tùy theo ư ḿnh (tự tại) thông suốt, quán triệt (quán) lẽ nhiệm mầu của vũ trụ và con người, đă tự giác và giác tha, th́ đều có thể chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

Quyết đoán thứ nhất :

"Ngũ uẩn giai không, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị ". Nói một cách khác, cái ǵ có h́nh sắc như muôn vật trong vũ trụ, núi sông, cây cỏ, nhà cửa, và cả thân ta do tứ đại hợp thành, chỉ là giả có, không phải thật có.

Tại sao vậy ? Ta có thể giải thích quyết đoán này bằng lối suy luận như sau :

1) Lư Vô Thường :

Cái ǵ ở trong vũ trụ cũng không bền vững : núi sạt, sông lở, các thực vật là cây cối mọc rồi tàn, các động vật như người và trâu ngựa, đều có sinh diệt. Không một pháp nào là hằng c̣n vĩnh viễn. Ta chỉ có thể nói rằng nó tạm thời có khi một số nhân duyên tụ họp, đến khi những nhân duyên kia ĺa tan th́ nó sẽ đi vào hư vô, vậy không thể nói là nó thực có, tự có.

2) Lư luận của đại đức Nagasena :

Một ngày kia, vua Milinda đến thăm đại đức và hỏi :
- Đại đức pháp danh là ǵ ?
- Tâu Đại Vương, Ngài tới đây bằng ǵ ?
- Cỗ xe ngựa.
- Cỗ xe ngựa của Đại Vương có phải là gọng xe, hoặc mui xe, thân xe, bánh xe không ?
- Không.
- Vậy, không có ǵ thực là cỗ xe, nó chỉ là sự tổng hợp của một số bộ phận là gọng, mui, thân, bánh xe. Cũng vậy, tâu Đại Vương, bạn đồng đạo gọi bần tăng là Nagasena, nhưng thật ra chẳng có cái ǵ là Nagasena cả, mà chỉ có một mớ tóc, da, thịt, xương, v . v .

Khoa học ngày nay c̣n cho ta biết thêm rằng thân thể ta, cũng như bàn ghế, nhà cửa, núi sông, chỉ là tổng hợp của một số nguyên tử, và nguyên tử nào cũng là tổng hợp của một số điện tử : dương điện tử, âm điện tử, trung ḥa tử, v . v .

3) Nhưng lư lẽ hay nhất của quyết đoán Sắc tức thị Không, là các pháp chỉ được nhận thức tương đối với mỗi loài hữu t́nh, chứ không có pháp nào tuyệt đối tự ngă đối với mọi loài. Ví dụ quyển sách này, đối với chúng ta th́ là quyển sách, nhưng đối với con mọt th́ nó là một kho lương thực. Nước đối với loài cá là chỗ ở yên lành, nhưng đối với loài người th́ là chỗ không thể sống được. Ngược lại cũng vậy, người sống ở trong không khí, nhưng cá sẽ chết ở trên cạn. Vậy th́ không có quyển sách tuyệt đối, không có nơi sinh sống tuyệt đối, những cái đó chỉ có giá trị và ư nghĩa tương đối với loài người mà thôi.

Khoa học ngày nay c̣n cho ta biết thêm rằng trong các luồng sóng từ điển của vũ trụ, mắt ta chỉ nhận thức được một khoảng rất nhỏ mà ta gọi là ánh sáng, c̣n những luồng sóng ngắn hơn ánh sáng tím, hoặc dài hơn ánh sáng đỏ, th́ mắt ta không nh́n thấy. Cũng vậy, trong các luồng sóng của không khí, ta chỉ nghe được một khoảng rất nhỏ, c̣n những âm thanh có luồng sóng dài quá hay quá ngắn th́ tai ta không nghe thấy được. Vậy giả dụ ta có đôi mắt hay đôi tai khác thường, nh́n thấy tất cả những quang tuyến X và luồng sóng vô tuyến điện, và nghe thấy cả những âm thanh trên hoặc dưới âm giai ta vẫn thường nghe thấy, th́ vũ trụ này sẽ hiện ra với ta một cách khác, ngh́n vạn lần kỳ lạ hơn những Bồng Lai tiên đảo của Từ Thức và của Bát Tiên Qúa Hải.

Đó là sự thật một trăm phần trăm, do khoa học chứ không phải Phật giáo nói ra, nhưng chúng ta v́ nghiệp đă tạo từ muôn ngàn kiếp trước, nên vô minh, không dễ dàng cảm thấy được. Muốn cảm thấy cái lẽ Sắc tức thị Không, ta c̣n phải tốn nhiều công phu tu hành, nhưng ít nhất ta cũng nên cố hiểu, đừng vội vàng cho lẽ đó là vô lư, v́ hiểu là bước đầu để đi đến cảm thấy. Nếu ta vẫn vô minh, vẫn không chịu t́m hiểu rằng thân ta, tâm ta, tiền bạc, danh vọng, và cả cha mẹ vợ con ta đều là giả cả, th́ công phu tu hành của ta sẽ không bao giờ đạt tới trí Bát Nhă, không bao giờ độ được nhất thiết khổ ách.

Quyết Đoán Thứ Hai :

Sắc tức thị Không, nhưng cái Không đó không phải là trống rỗng, là không có ǵ cả, mà là Chân Không Diệu Hữu, tức là cái bản thể của mọi pháp, từ đó sinh ra mọi pháp, mọi hiện tượng. Kinh Bát Nhă không cho ta biết cái Chân Không Diệu Hữu như thế nào, có những đặc tính rơ rệt nào, mà chỉ nói đến đặc tính tiêu cực của nó : Cái tướng không của chư pháp bất sinh bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Giải thích như thế quả thật không làm cho chúng ta hiểu cái Bản Thể Chân Như là cái ǵ. Tuy vậy chúng ta thử giải quyết vấn đề nan giải đó bằng cách chia nó ra làm hai đối tượng cho dễ nhận xét : cái ǵ là bản thể Vũ Trụ? và cái ǵ là bản thể của con người, một thành phần của Vũ Trụ ?

a) T́m hiểu Vũ Trụ : Chúng tôi xin nhắc lại khoa học ngày nay cho ta biết rằng nguyên liệu tối hậu của vạn pháp là chất năng lượng, là các hạt điện dương, âm, hoặc trung ḥa, có những năng lực kỳ diệu là từ điện (force électro magnétique), hạch tâm (force nucléaire), và hấp dẫn (gravitation). Nhưng tại sao và do đâu mà vật chất có những năng lượng đó ? Khoa học chịu không thể trả lời được, dành phần cho các tôn giáo và triết học đưa ra một số giải đáp để cắt nghĩa Bản Thể Vũ Trụ là ǵ, và do quá tŕnh nào mà nó biến thành vạn pháp, nghĩa là từ cái Một biến thành cái Nhiều.

1) Một số tôn giáo hữu thần, như Thiên Chúa giáo, đưa ra một giải pháp rất giản dị: uyên nguyên của Vũ Trụ là Thượng Đế. Ngài là Đấng Tạo Hóa (Créateur) toàn năng, muôn vật của vũ trụ chỉ là những sở tạo(créatures). Chính Thượng Đế đă tạo ra mọi vật, từ các vật vô tri như đá, sắt, vàng, cho đến các sinh vật như cây tùng, cây bưởi, con ḅ, con người. Sự tạo ra vũ trụ là một phép lạ, sự hiện hữu của con người có tư tưởng, có t́nh cảm, cũng là một phép lạ, một cái ǵ thiêng liêng, thánh thần, chỉ nên chấp nhận là sự ban ơn của Thượng Đế, chứ không thể t́m hiểu. Và như vậy, Bản Thể của Vũ Trụ là ǵ không thành vấn đề, do đâu mà Một biến thành Nhiều cũng không thành vấn đề, đối với những tín đồ của tôn giáo đó. Họ chỉ trả lời : đó là ư muốn của Thượng Đế, đó là phép lạ của Thượng Đế.

2) Một số tôn giáo khác và triết học, trái lại, không chấp nhận giải pháp Thượng Đế, không tự hỏi sự tạo ra Vũ Trụ có cần đến một phép lạ thánh thần nào không, mà nh́n nhận luôn sự hiện hữu của Vũ Trụ là một sự đă rồi, không thể chối căi được. Và họ phỏng đoán rằng Vũ Trụ khởi đầu là một khối hỗn mang, độc nhất, mà Nho giáo gọi là Thái Cực, Lăo giáo gọi là Đạo, và Phật giáo gọi là Chân Như. Rồi khối hỗn mang nguyên thủy đó, cái Một tự phản chiếu, rồi v́ sự phản chiếu đó mà biến ra Chủ Thể và Khách Thể, cũng ví như một người đứng giữa quăng không th́ chỉ có một ḿnh, nhưng khi soi ḿnh vào mặt nước th́ thấy vừa có ḿnh, vừa có h́nh bóng ḿnh trên mặt nước. Cái khách thể đó là vạn pháp trong vũ trụ, c̣n cái chủ thể vẫn là bản thể của Vũ Trụ, bàng bạc khắp nơi và khắp thời. Và tới đây, chúng ta hơi hiểu một phần nào cái "Không tính " nói trong kinh Bát Nhă, bằng lư luận tương tự (raisonnement par analogie) :

Nó bất sinh bất diệt như thời gian vô thủy vô chung, như không gian vô tận vô hạn. C̣n nó bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm, không như các pháp hữu h́nh hữu sắc, v́ nó đă vô h́nh vô sắc th́ c̣n cấu tịnh vào đâu, c̣n tăng giảm chỗ nào được ?

b. T́m hiểu Ta : Trên đây chúng tôi đă tŕnh bầy rằng Ta gồm có một phần vật chất thường gọi là Thân, nhà Phật gọi là Sắc, và một phần tinh thần thường gọi là Tâm, nhà Phật gọi là Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Và chúng tôi cũng đă tŕnh bầy rằng cả thân và tâm đều không có tự ngă. Trở lại một thí dụ đă cũ nhưng rất đúng, ta có thể nói :

Cái thân ta là một lữ quán, lúc đầu c̣n nhỏ bé, rồi khuyếch trương lên, xây thêm nhiều pḥng ốc, và cuối cùng siêu vẹo, bị phá đi để xây dựng một cái lữ quán mới. Nó không phải là ông chủ cái lữ quán đó.

Các tâm sở của ta là những khách tới trọ, một vài giờ, một vài ngày, rồi lại ra đi ; chúng cũng không phải là chủ nhân của cái lữ quán đó. Chủ nhân cái lữ quán là cái Thực Ta, cái Chân Ngă, bất sinh bất diệt, trước khi làm chủ cái lữ quán đó th́ đă làm chủ nhiều lữ quán xa xưa, và sau khi các lữ quán kia đổ nát th́ lại làm chủ một lữ quán mới, măi măi vô cùng tận.

Những người theo chủ nghĩa vật chất bảo rằng khi thân thể chết là hết, làm ǵ c̣n linh hồn sống sót để nhập vào một cơ thể khác, tiếp tục ṿng sinh tử luân hồi. Sự nhận xét đó của họ, mới xét qua th́ tưởng như rất thực tế, khoa học, gạt bỏ mọi mê tín, nhưng thật ra th́ chẳng cắt nghĩa được cái ǵ cả. V́ dù là khoa học đời nguyên tử này, đời hỏa tiễn liên hành tinh này, khoa học vẫn chịu không cắt nghĩa được sự sống là ǵ, tư tưởng là ǵ, do đâu mà có ? Chủ nghĩa vật chất bất lực để cắt nghĩa cái phép lạ đó, cái mà chúng ta gọi là Chân Ngă, hoặc Phật tính, hoặc Linh Quang (étincelle divine) cũng được. Nó cũng không thể cắt nghĩa được nhiều sự kiện khác, như có người sinh ra được hưởng giầu sang trong khi có người phải chịu nghèo hèn suốt đời, có người đẹp, có người xấu, có người thông minh, có người ngu dốt, v . v . Nếu bảo rằng đó là do ngẫu nhiên th́ vô lư quá, chỉ có thể cắt nghĩa bằng luật Nhân Quả, nghĩa là phải chịu chấp nhận có một bản thể tồn tại vĩnh viễn, và do nghiệp lực dẫn tâm thức người chết tới một kiếp sống khác để hưởng hoặc chịu quả của nhân tạo ra trong kiếp trước.

Quyết Đoán Thứ Ba :

Không những bài Tâm kinh phủ nhận các pháp thế gianƠ :Ơ " Vô nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ư, vô sắc, thanh hương, vị, xúc, pháp, vô nhăn giới năi chí vô ư thức giới "; mà c̣n phủ nhận cả các pháp xuất thế gian : "Vô vô minh diệc, vô vô minh tận, năi chí vô lăo tử diệc, vô lăo tử tận" tức là phủ nhận bài học Thập Nhị Nhân Duyên ;"Vô khổ, tập, diệt, đạo" tức là phủ nhận bài học Tứ Diệu Đế ; "Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố" tức là phủ nhận phép tu Lục độ : bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí huệ.

Sở dĩ đức Phật làm như vậy, là v́ sau khi đả phá cái chấp Hữu của thế gian, Ngài e rằng chúng sinh lại chấp Vô của cái bài thuyết pháp của Ngài. Kinh Kim Cang nói rơ ư đó : "ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" nghĩa là muốn giải thoát khỏi các khổ năo th́ không được chấp cả thiện, bồ đề, niết bàn, phải đạt tới tâm B́nh Đẳng, coi thiện ác như nhau, coi Bồ Đề và vô minh như nhau, coi Niết Bàn và Ta Bà như nhau. Tại sao vậy ? V́ c̣n phân biệt thiện ác th́ c̣n yêu thiện ghét ác, tức là c̣n tâm thiên vị. V́ c̣n phân biệt Bồ Đề và Vô Minh th́ tức là chưa hiểu rằng mỗi chúng sinh đều có Phật tính, không bao giờ mất cả, như Lục Tổ Huệ Năng đă nói :

"Bồ Đề bổn vô thụ
Minh kính diệc phi đài
Bổn lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai ?"

Bản dịch của Thích Thanh Từ:

Bồ Đề vốn không cây,
Gương sáng cũng chẳng đài,
Xưa nay không một vật,
Chỗ nào dính bụi bặm ?

V́ c̣n phân biệt Niết Bàn với cơi Ta Bà, tức là chưa hiểu rằng thiên đường hay địa ngục cũng chỉ ở trong tâm mà thôi, tâm mà tĩnh th́ dù ở Ta Bà cũng an lạc, c̣n tâm mà động th́ ở cơi thiên đường cũng bị phiền năo.

Quyết Đoán Thứ Tư.

Ngay câu đầu của bài Tâm kinh đă nói rơ dụng của trí Bát Nhă, là độ nhất thiết khổ ách. Đến vài đoạn sau, lại nói rơ thêm ư nghĩa đó :

"Bồ Đề tát đỏa, y Bát Nhă ba la mật đa cố, tâm vô quải ngại, vô quải ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật, y Bát Nhă ba la mật đa cố, đắc A Nậu đa la tam miệu tam bồ đề"

Đoạn này có phân biệt phẩm Bồ Tát với phẩm Phật. Là v́ tuy các vị Bồ Tát không c̣n tham sân si nữa, nhưng c̣n có thể e ngại rằng chúng sinh quá nhiều, khó độ được hết. Chỉ những vị Bồ Tát quán tự tại và các Phật, đă nương theo Bát Nhă ba la mật đa , mới hoàn toàn giải thoát.

Nhân tiện đây xin nói luôn về câu chú kết thúc và cũng tóm tắt bài Tâm Kinh : "Yết đế, yết đế, v . v ." Theo một học giả Trung Hoa và một học giả Âu Tây th́ câu chú đó có nghĩa là :

Độ khứ, độ khứ Cứu cánh độ khứ Cứu cánh chúng độ khứ Giác ngộ tốc viên thành.

Kết Luận.

Như trên kia chúng tôi đă nói, bài Tâm Kinh là tài liệu quan trọng nhất của giáo lư đạo Phật. Hiểu được nó, biến nó thành máu tủy của ḿnh, phản ứng với ngoại cảnh và nội tâm bằng triết lư đó, th́ tự khắc sẽ giải thoát được mọi nỗi thống khổ h́nh như là định mệnh con người.

Hoặc có người cho rằng bài Tâm Kinh đưa ra một triết lư tiêu cực, hư vô, biến con người thành vô tri, vô giác như loài thảo mộc, tuy không c̣n cảm thấy khổ nữa nhưng đồng thời mất cả những sinh thú trên đời, trốn tránh luôn cả trách nhiệm trên đời. Nhưng nghĩ như thế là lầm. Ta cứ đọc kỹ lại đoạn đầu của bài Tâm Kinh th́ thấy tuy nói rằng "Sắc bất dị Không ", nhưng cũng nói luôn "Không bất dị Sắc". Đó, tuy biết rằng tất cả là không, nhưng ngoài cái Không, không t́m ra đâu cái Có, ngoài hiện tượng không t́m ra đâu bản thể, ngoài sóng không t́m ra nước, ngoài cái thân tứ đại này làm ǵ có tâm, và ngoài cái tâm này làm ǵ có càn khôn vũ trụ, sơn hà, thảo mộc, chúng sinh và cả Phật nữa. Vậy chúng ta nên luôn luôn nhớ rằng đạo Phật không phải là một giáo lư hư vô (nihiliste), mà là một giáo lư vô cùng mầu nhiệm, phi hữu phi vô, diệc hữu diệc vô. (chẳng có chẳng không, cũng có cũng không)

Khi đạo Phật nói Vô, tức là bảo ta không cần phải quan tâm đến những cái khổ năo giả tạo của chúng sinh vô minh. Ta nghèo tiền của, ta ở địa vị hèn kém trong xă hội, ta có người thân thuộc bị sinh ly tử biệt, nhưng nếu ta có được trí Bát Nhă th́ sẽ không khổ v́ biết rằng tiền bạc, danh vọng, liên hệ gia đ́nh, tất cả chỉ là giả hữu mà thôi, đều là Vô.

Vô mà cũng là Hữu, hai cái đó như là hai mặt của cùng một đồng tiền. Ví dụ như tiền bạc một mặt là Vô, mất nó không cần khổ sở, muốn kiếm nó cũng không cần phải lao tâm khổ trí quá đáng. Một mặt khác tiền bạc cũng là Hữu, v́ có nó ta mới cứu giúp được những người nghèo khổ, mới tham gia tích cực vào các công tác xă hội, tôn giáo, quốc gia. Ngay cái thân mệnh của ta cũng vậy, nó vừa là Vô, ta phải coi nó như sợi lông hồng, phải b́nh tĩnh chờ ngày lâm chung ; nó lại vừa là Hữu, ta phải cẩn thận giữ ǵn nó để có thể làm tṛn nhiệm vụ của người con, người cha, người công dân, người Phật tử, v . v .

Nói tóm lại, đạt được trí Bát Nhă th́ một mặt thấy thân tâm vô cùng an lạc, hạnh phúc ở ngay trong tâm ta, không chờ đợi tiền bạc, danh vọng, chính quyền, và các vị thánh thần, Phật tiên nữa. Và một mặt hăng hái thực hiện Bi, Trí, Dũng, bố thí tài, pháp, vô úy cho chúng sinh, sẵn sàng xả thân v́ tổ quốc, v́ đạo pháp.

Kinh Bát Đại Nhân Giác.

Đại cương.

1. Bộ kinh này không phải do đức Phật nói ra ở một địa điểm và ở thời gian nhất định nào (như các kinh Kim Cang, A Di Đà, v . v .), mà là do ngài An Thế Cao, người nước An Tức (thuộc xứ Ba Tư) rút những phần tinh yếu của Phật pháp mà soạn ra, rồi dịch sang tiếng Hán, dưới đời Đông Hán (tức là vào khoảng thế kỷ 1 hoặc 2 sau Kỷ nguyên).

Tên kinh là Bát Đại Nhân Giác, nghĩa là tám điều hiểu biết của các bậc đại nhân, tức là Phật và Bồ Tát, và có thể gồm cả các vị cao tăng và cư sĩ có cơ duyên đặc biệt. Trong kinh, có chỗ ghi là giác ngộ, có chỗ ghi là giác tri. Hai danh từ đó có ǵ khác nhau không ? Cùng nghĩa là hiểu biết, nhưng có lẽ chữ Ngộ hàm ư thốt nhiên hiểu, dưới một cảm xúc mănh liệt nào đó, như sực tỉnh sau một giấc mơ, c̣n chữ Tri th́ thiếu yếu tố thốt nhiên đó.

2. Tám điều hiểu biết đó, ta nên chia làm 3 phần để thấy rơ đại ư của bộ kinh :

a) Phần hiểu biết về những giáo lư căn bản, làm cơ sở cho Phật pháp, là Vô Thường, Vô Ngă, và Khổ Đế (đệ nhất giác ngộ)

b) Phần giác tri về những nguyên nhân gây ra khổ

- Đa dục (đệ nhị)
- Bất tri túc (đệ tam)
- Giải đăi (đệ tứ)
- Ngu si (đệ ngũ)
- Bần bách (đệ lục)

c) Phần giác ngộ về hướng tu :

- Tạm thời cho cư sĩ : bất nhiễm dục lạc và chí nguyện xuất gia (đệ thất)

-Ơ Rốt ráo cho hàng Bồ Tát nhưng mọi Phật tử đều nên theo : phát Bồ Đề tâm và phổ tế nhấtƠ thiết (đệ bát).

Đệ Nhất Giác Ngộ.

1. Lư Vô Thường. Từ thân tâm con người cho tới sông núi, cây cỏ, thời tiết, v.v. tất cả đều vô thường, biến dịch. Nhận xét này quá hiển nhiên, bất tất phải giải thích.

2. Lư Vô Ngă, có 2 nghĩa : Một là phá chấp cái tiểu ngă của ḿnh, và hai là phá chấp sự tin tưởng vào một linh hồn bất diệt, đời đời y nguyên.

a) Nghĩa thứ nhất có thể giải thích bằng nhiều cách : Như lời tu sĩ Nagasena trả lời vua Milinda, rằng cái ǵ cũng chỉ là tổng hợp của nhiều bộ phận, do nhân duyên hợp th́ thành, nhân duyên tan th́ diệt. Hoặc v́ tất cả các pháp đều tuân theo định luật Trùng trùng duyên khởi, không có cái nào hoàn toàn độc lập tự sinh. Nhưng lối giải thích thỏa đáng nhất, theo thiển ư, là mỗi pháp được nhận thức tùy theo cộng nghiệp và biệt nghiệp của mỗi chúng sinh (Duy Thức học). Ví dụ cái ghế là một dụng cụ để ngồi đối với người, nhưng lại là kho lương thực cho con mọt gỗ, không có cái ghế tuyệt đối cho mọi loài chúng sinh.

b) Tại sao Phật giáo lại chủ trương phá tin tưởng vào một linh hồn bất diệt ? V́ người nào tin linh hồn bất diệt, đời đời y như vậy, ác vẫn là ác, thiện vẫn là thiện, th́ người đó sẽ không chịu tu thân để cải thiện kiếp sau, hoặc nghĩ rằng không có kiếp tái sinh, khi chết sẽ được lên Thiên Đường hoặc bị đầy xuống Địa Ngục theo hành vi của kiếp sống này mà thôi. Phật giáo đă chủ trương thuyết Luân Hồi và thuyết Nghiệp Báo, nên cũng chủ trương luôn không nhận có linh hồn bất diệt.

3. Đời là khổ. Tại sao ? V́ có sinh th́ có bệnh, lăo, tử, là những khổ không thể tránh được. Hơn thế nữa, những cái tạm gọi là vui, như thi đỗ, làm giầu, được quyền cao chức trọng, v.v., ta phải lao tâm khổ tứ để được nó, để giữ nó, và đôi khi cũng mất nó v́ nó vô thường.

Đệ Nhị Giác Tri

1. V́ thân tâm con người là ngũ ấm : sắc, thọ, tưởng, hành, thức nên thường đắm vào ngũ dục là : tài (tiền bạc), sắc (sắc đẹp), danh (công danh), thực (ăn uống), và thùy (ngủ, nghỉ).

2. Càng nhiều dục càng khổ (v́ những lư do đă tŕnh bầy ở đệ nhất giác ngộ).

3. Bởi vậy, cách bớt khổ là thiểu dục vô vi, không tạo thêm nghiệp nữa. Chúng sinh phải kiểm soát những dục, không để cho chúng quá độ, và nhất là rơi vào bất chính, nghĩa là tối thiểu không nên tạo ác nghiệp. C̣n bậc Bồ Tát th́ không tạo cả thiện nghiệp nữa, như bố thí mà không thấy ḿnh bố thí.

Đệ Tam Giác Tri

1. Chúng sinh tâm vô yểm túc, nghĩa là không chán thèm muốn nhiều hơn nữa, không biết thế nào là đủ. Bất tri túc cũng gần đồng nghĩa với đa dục, v́ ham muốn nhiều tức là không biết thế nào là đủ, có một muốn mười, có voi đ̣i tiên. Tâm chúng sinh là như vậy, là túi tham không đáy. Do đó mà tăng trưởng tội ác.

2. Bồ Tát không thế, tri túc, chịu nghèo để giữ đạo, lấy huệ làm sự nghiệp cứu cánh. Hai sự nghiệp của chúng sinh và Bồ Tát, một là thỏa măn ḷng dục vô tận, một là mở mang trí huệ. Hai cái đó không thể đi đôi với nhau được. Phải lựa chọn lấy một, không thể ôm đồm cả hai. Những người mê man theo đuổi danh lợi, nghĩ rằng việc đó không hại đến đức hạnh, là tự dối ḿnh.

Đệ Tứ Giác Tri.

1. Giăi đăi là biếng nhác, không chịu siêng năng tu tập, sẽ bị trụy lạc, nghĩa là rơi vào tội lỗi. Tại sao ? V́ giăi đăi chỉ là phương diện tiêu cực của đa dục, là tự buông lơi, để cho tâm trôi theo những dục, không có hùng tâm tráng chí chống lại chúng.

2. Trái lại, phải tu hạnh tinh tấn, không có nghĩa là làm việc hăng hái để mưu danh lợi, để kiến tạo nghiệp thế gian, mà là hăng hái chuyên cần để kiến tạo huệ nghiệp.

3. Nếu tinh tấn th́ đánh bại được tứ ma. Tứ ma là ǵ ? Theo đạo Phật, cái ǵ phá hoại sự thành công của ḿnh, th́ gọi là ma. Có tứ ma là:

- phiền năo ma, tức là tham, sân, si.

- ngũ ấm ma, là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, tức là thân và tâm thức, nên mới dễ bị cám dỗ vào ngũ dục.

- tử ma, theo thiển ư, không phải là ma chết, mà là kư ức những lỗi lầm trước, thương tiếc những dịp giầu sang đă bỏ lỡ. Chúng gây ra tâm trạng phiền năo, hối tiếc. Xin nói thêm rằng sám hối khác rất xa hối tiếc. Hối tiếc là hiện nay vẫn c̣n phiền năo về những sự việc đă qua, c̣n sám hối là hiện nay đă biết hổ thẹn về những sự việc đó, đă ra khỏi được tâm trạng phiền năo. Ví dụ hối tiếc là tấm áo bẩn chưa giặt, c̣n sám hối là tấm áo bẩn đă được giặt sạch sẽ.

- thiên ma, cũng theo thiển ư, không phải là ma trời, mà là những hy vọng hăo huyền, hoặc những lo sợ về tương lai. Trái lại, người tu hạnh tinh tấn không hy vọng hoặc lo sợ vớ vẩn, tin vào đạo hạnh của ḿnh đủ đối phó với mọi hoàn cảnh, ví như cây thông không sợ ǵ gió băo phũ phàng.

4. Và người tu hạnh Tinh tấn sẽ đem được ngũ ấm của ḿnh (thân tâm) ra khỏi ngục tam giới là Dục giới, Sắc giới, và Vô sắc giới. Tại sao Tam giới lại gọi là ngục ? V́ chưa hoàn toàn thoát ly khỏi ṿng sinh tử luân hồi, dù ở Vô sắc giới.

Đệ Ngũ Giác Tri.

1. Ngu si sanh tử, nghĩa là ngu si th́ bị trầm luân vào ṿng sinh tử luân hồi. Muốn thoát khỏi ṿng đó, phải diệt ngu si, học hiểu thuyết Thập Nhị Nhân Duyên, đứng đầu là Vô Minh, tức ngu si. V́ Vô minh nên mới sinh Hành, rồi tiếp tục mười nhân duyên khác, cho tới Sinh, Lăo, Bệnh, Tử, để rồi trở lại Vô Minh trong kiếp lai sinh, cứ thế luẩn quẩn măi.

2. Bồ Tát thường niệm, nên học rộng biết nhiều, tăng trưởng trí huệ. Không những phá được Vô Minh cho bản thân, mà c̣n thành tựu biện tài, nghĩa là nói giỏi, nghĩ thấu tâm ư đối phương, nên dễ cảm hóa ḷng người. Do đó, Bồ Tát tự giác rồi có thể giác tha, khiến cho cả Bồ Tát cùng chúng sinh đều được hưởng an lạc, đại lạc.

3. Đại lạc không phải là vui theo nghĩa thế gian, theo ngũ dục chỉ tạm bợ rồi là khổ, mà là cái vui chắc chắn, không một tai họa nào có thể đánh đổ, vĩnh viễn, v́ không c̣n bị trầm luân trong ṿng Luân Hồi nữa.

Đệ Lục Giác Tri.

1. Nghèo khổ th́ hay bực bội, dễ ngưng kết các duyên ác, như trộm cắp, ăn gian nói dối. Nói vậy không có nghĩa là bảo người giầu đều lương thiện, mà chỉ nhận định một sự kiện hiển nhiên là sự nghèo túng, đối với đa số phàm phu, đẩy họ vào ngơ cụt, túng th́ làm càn. C̣n người giầu cũng v́ giầu mà dễ sinh kiêu mạn, dâm dật, phạm nhiều tội ác khác.

2. Vậy giáo lư này không có mâu thuẫn với đệ tam giác tri là "An bần thủ đạo", mà chỉ bổ khuyết nó. An bần thủ đạo là giữ ḿnh trong sạch, không thèm làm giầu một cách phi pháp. Nhưng vẫn phải làm việc thế gian để mưu sinh, không lệ thuộc vào kẻ khác. Vấn đề y thực được giải quyết ổn thỏa, th́ mới có thể an tâm học đạo.

3. Đă mưu sinh cho ḿnh rồi, c̣n có thể bố thí cho những người nghèo hơn ḿnh, nên thương xót họ v́ biết rằng cái nghèo có thể khiến họ trở thành ác. Và như vậy, không những là làm lợi cho người được bố thí, mà c̣n làm lợi cho chính người đi bố thí, v́ bố thí là hạnh tốt nhất để phá chấp Ngă. Nhưng muốn được lợi lộc đó, khi bố thí phải giữ tâm B́nh Đẳng, không phân biệt người thân kẻ sơ, không nhớ lại những lỗi lầm cũ của người ta, ngay cả những kẻ ác hiện nay ta cũng không nên ghét bỏ chúng.

Đệ Thất Giác Ngộ.

1. Đă giác tri được những điều trên, người cư sĩ phải làm hai điều : một là không nhiễm vào những dục lạc thế gian, ví như bông sen tuy sinh trưởng trong bùn mà không hôi tanh mùi bùn.

2. Hai là chí nguyện xuất gia, cũng ví như bông sen từ đám bùn hôi hám vươn lên không khí trong lành. Có như vậy th́ việc tu đạo mới hoàn toàn thành thực và tích cực. Tự cho ḿnh là cư sĩ an bần thủ đạo, chưa đủ, chưa dấn thân vào cuộc đời khổ hạnh của các tu sĩ khất thực, không vợ con, không một xu dính túi, không cả một mái nhà để tránh mưa nắng, thú dữ, th́ Bi, Trí, Dũng, nhất là Dũng, chưa thể nào thành tựu được tới mức tối cao.

3. Tuy vậy, những cư sĩ nào, v́ nghiệp báo, đă chót vướng vào nhiều hệ lụy gia đ́nh hoặc quốc gia, hoặc v́ sức yếu, kém thông minh, không thể phủi tay ra đi được, th́ ít nhất cũng nên có chí nguyện xuất gia kiếp sau, may ra sẽ thành tựu được. Chính v́ đó mà chúng ta không những phải quy y Phật, quy y Pháp, mà c̣n phải quy y Tăng, v́ tăng là những bậc siêu nhân nêu gương mẫu cho chúng sinh theo.

Đệ Bát Giác Ngộ.

1. Nhận định rằng việc sanh tử liên miên từ kiếp này sang kiếp khác, rằng cũng may trong kiếp này ḿnh được sinh làm người, được nghe Phật pháp là một hạnh ngộ khó gặp, nếu không chịu tu th́ biết đâu kiếp sau sẽ phải giáng xuống địa ngục, làm ngạ quỷ, làm súc sinh, th́ đến kiếp nào mới lại được nghe Phật pháp và được cứu độ ?

2. Không những phải tự cứu ḿnh mà c̣n phải phát tâm Đại Thừa, cứu cả khắp chúng sinh. Dù phải lăn lưng vào vô lượng khổ, cũng phải hứng chịu. Tại sao ? V́ lẽ tương ứng, Nhiều là Một, và Một là Nhiều, một chúng sinh không thể riêng an lạc được nếu c̣n chúng sinh khác bị khổ. Cũng ví như một cốc nước trong đem bỏ phẩm đen vào đó, th́ c̣n giọt nước nào trong cốc c̣n giữ được trong sạch không ? Hoặc nếu một quốc gia bị xâm lăng, th́ có công dân nào được an vui giầu sang không ? Đó là tâm trạng của các vị Bồ Tát, như Địa Tạng Vương Bồ Tát, nguyện không thành Phật nếu c̣n một chúng sinh chưa được cứu độ.ƠƠ

Kết Luận.

Ta thấy kinh Bát Đại Nhân Giác khởi đầu bằng những giáo lư Tiểu Thừa, nhưng rồi kết thúc bằng tư tưởng Đại Thừa. Từ nhận xét đó ta có thể suy luận ra hai điều :

- Một là cuốn kinh đó được trước tác trong thời tư tưởng Đại Thừa mới chớm nở, chưa phát đạt lắm, nên kinh này chỉ nói đến lư Vô Thường, Vô Ngă, Dục, Xuất gia, v . v ., mà chưa bàn đến bản thể Chân Như nằm dưới các hiện tượng.

- Hai là, theo thiển ư, kinh này muốn dậy chúng sinh rằng trước khi t́m hiểu các vấn đề siêu h́nh, hăy huân tập các hạnh căn bản của người Phật tử đă. Chớ nên có tham vọng một bước đến ngay bỉ ngạn.

Thử T́m Hiểu Kinh Kim Cang.

Chúng tôi đă đọc đi đọc lại mấy chục lần kinh Kim Cang Bát Nhă Ba La Mật, và suy nghĩ từ mấy năm rồi, mà vẫn không chắc đă hiểu hết ư nghĩa uyên thâm của nó. Tuy nhiên, cũng nhận thấy rằng bộ kinh này là bộ kinh chính yếu, chứa đựng cốt tủy của Phật giáo, nếu không biết đến nó th́ không khác ǵ người đi t́m của báu trong đêm tối, làm sao t́m thấy cho được ? Và đồng thời nẩy ra ư kiến rằng sức một ḿnh không hiểu nổi, sao không rộng hỏi các bậc cao minh ? Do đó nên chúng tôi mạo muội viết bài này, với tham vọng ném ḥn đất ra để thu về ḥn ngọc quư.

Dưới đây chúng tôi căn cứ vào quyển "Kinh Kim Cang giảng lục" của thượng tọa Thích Huệ Hưng dịch một bài diễn giảng của đại sư Thái Hư bên Trung Quốc, chia làm 32 đoạn theo sự xếp đặt của thái tử Chiêu Minh nhà Lương. Nhưng nhận thấy có nhiều đoạn trùng điệp, nên chúng tôi sẽ không theo thứ tự đó để rút ra những ư kiến chính của bộ kinh.

I. Trước hết, trong rất nhiều đoạn, đức Phật đă nhấn mạnh đến giá trị vô song của bộ kinh này :

- Đoạn 8 : Tất cả chư Phật và pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác của chư Phật đều từ kinh này mà ra.

- Cũng đoạn 8, và các đoạn 11, 13, v.v. : Nếu có người nào thọ tŕ kinh này, dù chỉ thọ rất ít, được bốn câu kệ nào thôi, rồi giảng nói cho người khác nghe, th́ phước lại nhiều hơn người đem bẩy báu khắp cơi tam thiên đại thế giới mà bố thí.

- Đoạn 12, 15 : Nơi nào, chốn nào mà có kinh này, tất cả thế gian, Trời, người, A tu la, đều nên cúng dường. Phải biết chỗ đó chính là tháp Phật, nên cung kính lễ bái, nhiễu quanh, và đem các thứ hương hoa mà rải chỗ đó.

- Đoạn 16 : Như thiện nam, tín nữ nào thọ tŕ, đọc tụng kinh này, nếu bị người khinh rẻ, đó là tội nghiệp của người ấy ở đời trước đáng bị đọa vào ác đạo, nhân đời này bị người khinh rẻ, nên tội nghiệp đời trước bèn tiêu diệt và sẽ được đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác.

II. Vậy bộ kinh này dậy bảo điều ǵ mà có giá trị vô song như vậy? Mở đầu cho Pháp hội, trưởng lăo Tu Bồ Đề hỏi đức Phật : "Phải hàng phục và trụ cái tâm như thế nào ?" Và đức Phật trả lời : "Các Bồ Tát lớn nên hàng phục cái tâm như vầy : Hết thảy những loại chúng sinh, ta đều làm cho vào Vô Dư Niết Bàn mà được diệt độ ..."

Theo thiển ư, câu trả lời này nêu ra một vấn đề thứ nhất : Tại sao muốn hàng phục tâm (nghĩa là điều khiển nó, không cho nó vọng động bởi những ư nghĩ tham, sân, si, tức là dứt bỏ phiền năo) lại phải độ chúng sanh (trường hợp riêng cho các Bồ Tát), hoặc phải bố thí (trường hợp chung cho phàm nhân, không đủ sức độ được người khác nhưng ít nhất cũng có thể làm một hành động từ thiện giúp đỡ họ hoặc bằng tiền của, hoặc bằng săn sóc an ủi họ) Phải chăng bài học này dựa trên một nhận xét thông thường là : Muốn quên những phiền năo của chính ḿnh, không ǵ bằng hoạt động hăng hái để giúp đỡ người khác. Xin lấy hai thí dụ :

- Thí dụ thứ nhất là kinh nghiệm bản thân của phần đông dân tị nạn. Riêng chúng tôi c̣n nhớ, sau mười ngày lênh đênh trên biển cả, bị xếp như cá hộp trong hầm tầu hôi hám hoặc dăi dầu mưa nắng trên boong, ăn uống th́ kham khổ với đồ hộp nguội tanh, khi bước chân lên đảo Guam như một lũ ma đói, quần áo bẩn thỉu nhầu nát, th́ được mấy bà già HồngThập Tự đón tiếp nồng hậu, mời uống nước ăn bánh với nụ cười vô cùng hiền từ, khiến chúng tôi cảm động đến rớt nước mắt. Rồi tới trại Indiantown Gap, tôi theo học một lớp Anh ngữ cho đỡ buồn, và một hôm kể lại cảm tưởng đầu tiên tới đất Mỹ với bà giáo : "Mấy bà Hồng Thập Tự đă làm cho tôi có một ư nghĩ về người Mỹ tốt hơn là khi tôi ở Việt Nam." Bà giáo ngạc nhiên và hỏi tôi : "Người Mỹ ở Việt Nam làm sao ?" Tôi trả lời : "Câu chuyện đó dài lắm, và vốn Anh ngữ nghèo nàn của tôi không đủ để tôi giải thích được. Nhưng rồi bà đọc các sách báo về sự sụp đổ miền Nam Việt Nam sẽ hiểu rơ. Điều tôi chỉ muốn nói với bà bây giờ, là tôi rất cảm kích các bà Hồng Thập Tự đă cho phép tôi nh́n người Mỹ với thiện cảm hơn trước." Bà giáo gật đầu và bảo : "Ông có biết không ? Các bà ấy toàn là bọn giầu sụ, ăn không ngồi rồi, phải cầy cục mới được đi làm không công đấy. Ông không cần phải cảm ơn họ, chính họ cảm ơn đồng bào ông đă cho họ cơ hội làm việc từ thiện, khiến chuỗi ngày dài trống rỗng của họ được bận rộn với một công việc thích thú mà họ tin rằng sẽ cho họ lập chút công với Thượng Đế." à ra thế ! Nhưng mặc dầu bà giáo của tôi có chút thành kiến đối với bọn nhà giầu nói chung và với HồngThập Tự nói riêng, tôi vẫn nghĩ rằng các bà già hội đó đă an ủi tôi trong lúc tôi đang hoang mang, và đă làm đúng theo lời đức Phật dậy : là hạnh bố thí, dù vị kỷ hay vị tha, cũng là bước đầu đưa tới mục đích hàng phục tâm.

Thí dụ thứ hai là truyện ngắn "Thế rồi một buổi chiều" của nhà văn Nhất Linh. Truyện này chứng minh định luật tâm lư : Muốn quên đau khổ của chính ḿnh, th́ cách tốt nhất là lăn ḿnh vào hoạt động giúp ích người khác.

III. Cũng theo thiển ư, bài học của kinh Kim Cang không phải chỉ giản dị tầm thường như thế. Hoạt động vị tha để quên cái đau khổ vị kỷ là một chuyện, nhưng có thể nhờ đó mà ḷng được rửa sạch tục lụy, bỏ hết tham, sân, si không , lại là một chuyện khác. Muốn đạt tới mục đích này, đức Phật đă nói rơ :

- đoạn 3 : Diệt độ vô lượng vô số vô biên chúng sanh như thế, mà thật không có chúng sanh nào được diệt độ. Bởi v́ sao ? Nếu Bồ Tát có tướng ngă, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, th́ chẳng phải Bồ Tát.

- đoạn 4 : Đối với pháp, Bồ Tát nên không trụ vào pháp mà bố thí, nghĩa là bố thí mà không trụ vào các pháp sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.

- đoạn 32 : Tất cả pháp hữu vi như mộng, huyễn, bọt, bóng, như sương và như chớp. Nên quán sát như thế.

Đây mới là bài học chính yếu của kinh Kim Cang, là bộ kinh diễn giảng pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác, khiến cho tâm vô minh biến thành trí huệ rốt ráo (Bát Nhă Ba La Mật) thông suốt vũ trụ, cũng ví như kim cang là chất cứng rắn tột độ, có thể rạch tất cả các chất khác, dù là đá, pha lê, vàng bạc. Và như lời Phật dậy, trí Kim Cang đó ly mọi tướng, không trụ vào pháp nào. Tướng là ǵ ? Là hiện tượng mà phàm nhân thấy biết. Gồm tướng của vật chất như núi sông cây cỏ, tướng của tâm như các ư kiến, t́nh cảm, tướng của cả tâm và vật như tướng ngă, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả. Vậy ly tướng là nh́n các sự vật xuyên qua cái hiện tượng của nó để thấu tới bản thể. C̣n không trụ vào pháp nào là làm hạnh vô điều kiện, chỉ biết là việc nên làm th́ làm, thế thôi. Ví như làm hạnh bố thí, th́ không được chấp có người bố thí, có người thọ bố thí, có cái bố thí (tiền của, pháp, vô úy) Ví như làm hạnh diệt độ chúng sanh, th́ không được chấp có Bồ Tát năng độ, có chúng sanh sở độ, và có pháp diệt độ.

IV. Sau khi nói ra nguyên tắc "ly tướng, tâm vô sở trụ", muốn chắc chắn rằng ông Tu Bồ Đề đă hiểu rơ, đức Phật đă thử thách ông trong nhiều câu hỏi. Chúng ta thử nghiên cứu những câu trả lời của ông Tu Bồ Đề để t́m hiểu ư nghĩa bộ kinh. Việc nghiên cứu này không dễ dàng, v́ tuy ông Tu Bồ Đề trả lời đúng (có khi được đức Phật bổ khuyết thêm), nhưng ông không giải thích tại sao lại như thế. Ông là bậc đại tỳ khưu, hiểu ngay ư nghĩa lời đức Phật hỏi, nên không cần suy nghĩ lư luận. C̣n phàm nhân chúng ta, không có cái nh́n trực giác như thế, nên phải đi từng bước một có hiểu xong điều trước th́ mới có thể t́m hiểu điều sau.

Dưới đây là những điểm chính của cuộc vấn đáp giữa đức Phật và ông Tu Bồ Đề :

1 Đoạn 5. Vấn : Có thể do nơi thân tướng mà thấy được Như Lai không ? Đáp : Không. Như Lai nói thân tướng, tức chẳng phải là thân tướng.

Ông Tu Bồ Đề đă trả lời đúng, nhưng lối lư luận của ông có chỗ ngoắt ngoéo. Câu trả lời đúng v́ thân tướng mà Như Lai nói đó, tức là cái giả tướng của bốn đại, năm ấm ḥa hợp tạm thành, chứ không phải là chân tướng. Lối lư luận ngoắt ngoéo ở chỗ : "Như Lai nói thân tướng, tức chẳng phải là thân tướng". Rồi sau đây, trong những đoạn tiếp, chúng ta sẽ luôn luôn gặp lối lư luận ngoắt ngoéo đó, trái hẳn với nguyên tắc "bất mâu thuẫn" của Aristote. Phải chăng lối lư luận của Phật giáo là mâu thuẫn, điên đảo, nói một đằng, nghĩa một nẻo ? Đâu có như vậy, trái lại phải dùng nó mới diễn tả nổi chỗ cao siêu của Phật giáo là phải ly tướng mới thấy được bản thể. Bởi thế nên đức Phật tán thưởng câu trả lời của ông Tu Bồ Đề và giải thích thêm : Phàm cái ǵ có tướng đều là hư dối. Nếu thấy rơ các tướng chẳng phải tướng, tức là thấy Như Lai.

Đến đoạn 20 và 26, đức Phật trở lại câu hỏi tương tự, và nói kệ rằng :

Nếu lấy sắc thấy ta, lấy âm thanh cầu ta,
Người ấy tu tà đạo, chẳng thấy được Như Lai.

2) Đoạn 10. Vấn : Ví như có người thân như núi chúa Tu Di, thân ấy có lớn chăng ?

Đáp : Rất lớn. Bởi v́ sao ? Phật nói chẳng phải là thân, ấy gọi là thân lớn.

Câu trả lời này, lư luận c̣n ngoắt ngoéo hơn câu trên. Núi Tu Di biểu hiệu cho cái ǵ cực lớn, vậy người nào có thân như núi Tu Di tất nhiên là lớn. Nhưng cái lớn đó có nghĩa lư ǵ đối với hư không mười phương ? Nó chỉ lớn với một tỷ lệ xích nào thôi, nghĩa là không có cái lớn tuyệt đối. Thân cũng vậy, nếu ta không c̣n chấp tướng nhân, th́ không có thân. Vậy thật ra không có thân lớn mà chỉ cưỡng gọi là thân lớn.

Không những là không có thân, mà cả tâm cũng vậy. ở cuối đoạn 18, đức Phật bảo : "Tâm quá khứ không thể có được, tâm hiện tại không thể có được, tâm vị lai không thể có được." Về tâm quá khứ và tâm vị lai, chúng ta sẵn sàng đồng ư là không thể có được, v́ một cái đă qua và mộtƠ cái chưa đến. Nhưng c̣n tâm hiện tại, sao lại cũng không thể có ? V́ nó không dừng, chợt hiện lên th́ đă là quá khứ rồi và biến sang tâm vị lai, đâu có cái nào ngừng nghỉ mà bảo rằng có tâm hiện tại ?

3) Đoạn 13. Vấn : Cơi tam thiên đại thiên thế giới, có nhiều vi trần không ? Đáp : Rất nhiều

Đức Phật nói thêm : Những vi trần ấy, Như Lai nói chẳng phải là vi trần, mà gọi là vi trần. Như Lai nói thế giới, chẳng phải là thế giới, mà gọi là thế giới.

Nghĩa như sau:Ơ Các thế giới đều do vi trần họp thành. Nhưng vi trần không có h́nh tướng chân thật, chỉ cưỡng gọi là vi trần mà thôi. Vi trần đă không thật có, th́ các thế giới do vi trần họp thành cũng không thật có, chỉ cưỡng gọi là thế giới mà thôi. Đoạn này, chúng ta thấy rằng đức Phật, từ 25 thế kỷ trước, đă biết rơ có triệu triệu thế giới ngoài quả địa cầu (cái mà thiên văn học ngày nay gọi là Galaxies), và đă biết rằng vật chất rốt ráo là không (Vật lư học ngày nay chứng tỏ rằng các vi trần, tức là các hạt trong nguyên tử chỉ là các hạt năng lượng mà thôi).Ơ

4) Đoạn 7. Vấn : Có pháp ǵ nhứt định gọi là pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác không ? Nó có thể nói ra được không, có thể chấp thủ được không ? Phật có được nó không, có nói nó không ? Đáp : Không có pháp nào như thế, nó không thể nói ra, chấp thủ. Phật không được nó, không hề nói nó.

Đoạn kinh này khiến chúng tôi nhớ đến câu mở đầu cuốn Đạo Đức Kinh của Lăo Tử : "Đạo khả đạo, phi thường đạo." Th́ ra đức Phật và Lăo Tử đều có một ư niệm tương tự về Thực tại tối hậu, nó vượt ra khỏi ngôn ngữ, Lăo tử phải tạm gọi nó là Đạo, và đức Phật tạm gọi nó là pháp Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Sở dĩ nó vượt ra khỏi ngôn ngữ, v́ ngôn ngữ là dụng cụ truyền thông của những vọng tâm c̣n phân biệt sắc không, thị phi, không gian thời gian, làm sao diễn tả được cái vô phân biệt, không tướng mạo, không bỉ thử, không văng lai, vô thủy vô chung ? Do đó mà không thể nói nó ra được. Dù diễn tả nó bằng cách nào cũng là sai, nên không thể chấp thủ nó.

C̣n tại sao bảo đức Phật không được nó, Ngài mà chúng ta vẫn tôn xưng là đấng Giác Giả ? V́ tuy nó cao siêu như thế, nhưng nó có sẵn trong mỗi chúng sinh, và ở trong đức Phật, không từ đâu đến cả. Chúng sinh v́ mê muội nên chưa thấy nó, Phật chỉ là bậc giác ngộ đă hiển lộ được cái có sẵn.

Và cuối cùng, tại sao bảo đức Phật không hề nói nó, mặc dầu sau khi thành đạo, ngài đă chu du khắp nơi trong hơn 40 năm để thuyết pháp? Đó là do ư Phật không muốn chúng sinh nhận lầm "ngón tay trỏ mặt trăng làm mặt trăng", chấp cứng những lời dậy bảo của Ngài, cho đó là Thực Tại rốt ráo. Nhưng Thực Tại rốt ráo vuột ra khỏi mọi ngôn ngữ đ̣i diễn tả nó, dù là lời nói của đức Phật. Thế cho nên chấp lời của đức Phật, tức là phản lại bài học "ly tướng,tâm vô sở trụ" của Ngài.

5) Đoạn 9. Vấn : Các vị thánh có thể nghĩ rằng : Ta được quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán không ?

Đáp : Không. V́ sao ? V́ Tu Đà Hoàn nghĩa là Nhập Lưu hoặc Dự Lưu, nghĩa là dự vào ḍng thánh. Nhưng rốt ráo th́ không có người nào (ly tướng nhân) cũng không có pháp nào để dự vào (ly tướng pháp). V́ Tư Đà Hàm là tên của người c̣n phải một lần qua lại cơi trời, cơi người ; A Na Hàm là tên của người không c̣n đến thọ sanh ở cơi Dục ; A La Hán là tên hiệu của người vô sanh. Nhưng nếu các vị ấy nghĩ rằng ḿnh đă đắc quả tứ thánh, th́ tức là c̣n chấp tướng ngă, tướng nhân, chưa đạt được trí Bát Nhă, chưa xứng đáng là bậc Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán.

6) Đoạn 10. Vấn : Bồ Tát có trang nghiêm Phật độ không ? Đáp : Không. Trang nghiêm Phật độ tức chẳng phải là trang nghiêm, nên gọi là trang nghiêm.

Nghĩa là như sau : Bồ Tát phần tự tu đă xong, th́ tự tánh ḿnh là tịnh độ, cần ǵ phải trang nghiêm nữa ? Nhưng phần tu tự độ tuy đă xong, mà hạnh giáo hóa chúng sanh c̣n phải làm, v́ chúng sanh chính là Phật độ của Bồ Tát. Thế cho nên Bồ Tát không có trang nghiêm Phật độ (tức là thế giới thanh tịnh của ḿnh) nhưng vẫn giáo hóa chúng sanh, nên gọi là trang nghiêm.

V.Kinh Kim Cang c̣n nhiều đoạn khác, nêu ra nhiều câu hỏi hơi khác, nhưng có thể ghép vào một trong 6 điểm nêu trên. Luận điệu chung vẫn là : ly tướng, tâm vô sở trụ. Trên kia đă định nghĩa những danh từ ấy rồi, bây giờ chỉ cần t́m hiểu cho rơ ư nghĩa của giáo lư đó. V́ tuy các vấn đáp giữa Phật và ông Tu Bồ Đề đă giải thích nó, nhưng với một lư luận cô đọng, khó hiểu, phàm nhân chúng ta tâm trí c̣n ch́m đắm trong vô minh, khó mà lĩnh hội được chu đáo. Dưới đây chúng tôi xin tạm ghi vài ư kiến, nhưng chưa dám chắc là đúng.

1/ Giáo lư "ly tướng, tâm vô sở trụ" có phải là phủ nhận tất cả không? Phủ nhận chính thân tâm ḿnh, chúng sinh, các bậc thánh, thế giới, phủ nhận luôn cả sự thành đạo và sự nghiệp thuyết pháp của đức Phật, và pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác mà Ngài đă diễn giải ?

Nếu theo sát nghĩa từng chữ của kinh Kim Cang th́ h́nh như thế. Và nếu chúng tôi không lầm, th́ đó chính là lập trường của phái Tiểu thừa. Lập trường này là : tiêu diệt cái Ngă vị kỷ, phá cái chấp Ngă nhỏ bé của ḿnh để hợp nhất với cái Đại Ngă của Vũ Trụ, tiến tới trạng thái rỗng lặng của thể Chân Như. Và như vậy tất nhiên sẽ tiêu diệt được mọi phiền năo, thực hiện được Niết Bàn ngay trong kiếp này và thoát khỏi ṿng sinh tử luân hồi.

2/ Nhưng ở vài đoạn của kinh Kim Cang, chúng ta đă thấy đưa ra một lập trường khác c̣n được phát triển thêm trong các quyển kinh khác của phái Đại thừa. Là muốn hàng phục tâm, th́ đồng thời với ly tướng, tâm vô sở trụ, c̣n phải cứu độ chúng sanh, làm hạnh bố thí, có như vậy công phu tu hành mới được viên măn, và mới đạt được trí huệ Kim Cang, có một nhăn quan hoàn toàn trung thực về vũ trụ và nhân sinh. Nghĩa là vừa phủ nhận, vừa thừa nhận sự hiện hữu của vạn pháp. Phủ nhận v́ biết rằng chư pháp đều do nhân duyên mà sinh diệt, nhân duyên ḥa hợp th́ điên đảo mộng tưởng, nói rằng có sanh, nhân duyên ly tán th́ điên đảo mộng tưởng nói rằng có diệt. Cái có sinh có diệt đó là tướng. Vật chất là tướng, thân thể chúng sinh là tướng, và tư tưởng, t́nh cảm cũng chỉ là tướng, không có tự tánh, chỉ là điên đảo mộng tưởng, muốn thấu rơ sự thật th́ phải rời chúng. Đồng thời cũng thừa nhận, v́ đằng sau các tướng có sinh có diệt đó là thể Chân Như, bất sinh bất diệt, nhưng vô h́nh, chỉ có thể hiểu biết qua những tướng muôn h́nh vạn trạng của nó. Thể và tướng không rời nhau như bóng với h́nh. Đ̣i ly tướng thực tế để đạt tới thể siêu h́nh chỉ là ảo vọng của phái Tiểu thừa, họ chỉ đạt tới Hư Vô tiêu cực chứ không phải tới Chân Như tích cực, vô vi nhi vô bất vi. Câu sau đây của một thiền sư, bằng một h́nh ảnh ngoạn mục đă diễn giải lập trường của Đại thừa : "Trước khi học thiền, tôi thấy núi là núi và sông là sông. Trong khi học thiền, tôi thấy núi không phải là núi, sông không phải là sông. Và sau khi giác ngộ, tôi lại thấy núi là núi và sông là sông."

3/ Dưới ánh sáng của lập trường Đại thừa, ta thấy rằng :

- Ly tướng ngă, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả, không có nghĩa là không có ta, không có người khác, không có chúng sinh, không có thọ tưởng hành thức, mà chỉ có nghĩa rằng : Muốn hàng phục tâm, ta phải bỏ ḷng vị kỷ, tham sân si mạn, quên ḿnh đi để nghĩ đến người khác, như đấng Bồ Tát nguyện không thành Phật vội trước khi độ được khắp chúng sinh cũng giác ngộ như ḿnh.

- Tâm vô sở trụ cũng là ly tướng, được diễn tả bằng lời lẽ khác. Nghĩa là khi quên cái Ngă nhỏ bé của ḿnh để làm lợi cho nhân quần xă hội, th́ không được chấp rằng có ta chịu thiệt tḥi và có người khác được lợi lộc, có như thế th́ mục đích "hàng phục tâm" mới được hoàn toàn trọn vẹn. Kể ra trên đời không thiếu ǵ những bậc từ thiện sẵn sàng hy sinh cho một lư tưởng, không thiếu ǵ những bậc từ thiện sẵn sàng bố thí của cải cho người nghèo khó, hoặc tận tụy săn sóc cho người bệnh tật, nhưng e rằng những bậc đó, dù đáng quư trọng đến đâu, vẫn c̣n chấp có ta hy sinh, có người được hưởng, có sự hy sinh cao cả, v . v . . Ví dụ bậc vạn thế sư biểu là Khổng Phu Tử cổ kim không có ai thánh đức bằng ngài, vậy mà suốt đời lo lắng phổ biến chánh đạo để b́nh thiên hạ mà không thành, đến nỗi khi lâm chung phải than thở : "Đạo ta cùng chăng ?" Lại ví dụ bậc hiệp sĩ như Kinh Kha, nghĩa khí cao ngất từng mây, vậy mà v́ chịu ân tri ngộ của thái tử Yên Đan, phải đem ḿnh vào chỗ chết, ôm mối hận ngàn thu. Các bậc vĩ nhân đó đâu có tâm trí thảnh thơi, nụ cười tươi sáng bất diệt của bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

VI. Để có cái tâm trí thảnh thơi như Ngài, đức Phật đă dậy bảo chúng sinh bài học "ly tướng, tâm vô sở trụ". Nhưng v́ giáo lư đó quá cao siêu, đề nghị một nhăn quan khác với lối nh́n của thế tục, nên không những đức Phật đă phải hỏi đi hỏi lại ông Tu Bồ Đề để thử xem ông đă hiểu thấu chưa, và một mặt Ngài phải công nhận rằng nó quả thật khó tin, một mặt khác phải quả quyết rằng Ngài đủ thần thông để thấy đó là chân lư hoàn toàn :

- Đoạn 6 : ông Tu Bồ Đề nghĩ rằng không biết chúng sinh nghe được những lời Phật dậy, rồi có ḷng tin thật chăng ? Đức Phật quở ông mà bảo rằng : " Chớ nói lời ấy. Như Lai biết rơ rằng đến đời mạt pháp c̣n có người nghe kinh này mà khởi được ḷng tin."

- Đoạn 14. Ông Tu Bồ Đề nhận rằng : "Nay con được nghe kinh này, tin hiểu thọ tŕ, không đủ khó lắm. Nếu 500 năm về thời kỳ sau, có chúng sanh nào được nghe kinh này, tin hiểu thọ tŕ, th́ người ấy chính là ít có thứ nhất." Và đức Phật tán thưởng :"Phải đấy ! phải đấy ! Nếu lại có người được nghe kinh này mà không kinh, không khiếp, không sợ, phải biết người ấy rất là ít có".

- Cuối đoạn 14, muốn cho chúng sanh vững ḷng tin lời Ngài, đức Phật đă quả quyết rằng : "Như Lai là đấng nói lời chơn chánh, là đấng nói lời chắc thật, là đấng nói lời đúng đắn, là đấng nói lờiƠ không dối gạt, là đấng nói lời không sai khác ".

Thêm vào đó, đến đoạn 18, đức Phật c̣n tự nhận có đủ :

- nhục nhăn, con mắt của phàm phu ;

- thiên nhăn, con mắt của chư thiên, có năng lực thấy cả xa và gần, thấy suốt vạn tượng, không bị sắc chất làm ngăn ngại ;

- huệ nhăn, con mắt của hàng nhị thừa Thanh Văn Duyên Giác, quán thấy tất cả chúng sinh đều là không, đều là do bốn đại năm ấm giả hợp ;

- pháp nhăn, con mắt của Bồ Tát, rơ suốt các pháp đều bởi nhân duyên mà sinh ra, không có tự tánh ;

- và Phật nhăn, con mắt của Phật đă chứng được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, thấy biết tất cả chúng sanh, tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian. Đức từ phụ biết rằng giáo lư "ly tướng, tâm vô sở trụ" của ngài rất khó được chúng sanh tin theo nên bất đắc dĩ đă phải nói ra những lời đó, chứ ngài không hề bao giờ tự xưng ḿnh là một vị thần thánh khác hẳn loài người, và cũng chẳng bao giờ làm một phép lạ. Cái nhăn lực của ngài sở dĩ được lớn rộng như vậy chỉ là do công phu tu hành mà đắc đạo, giác ngộ, và có lẽ cũng v́ trong nhiều kiếp trước ngài đă tu hành nên đến kiếp này mới chóng được thành công như vậy. Chúng ta c̣n không tin bài học ngài dậy, há chẳng phụ tấm ḷng từ bi vô lượng của ngài ?

Để Kết Thúc.

Trên đây chúng tôi đă theo sự hiểu biết nông cạn của ḿnh mà nêu ra vấn đề "ly tướng, tâm vô sở trụ" ghi trong kinh Kim Cang, và cố t́m hiểu những lời giải thích. Có thể - và chắc chắn là thế - chúng tôi mới chỉ nh́n thấy một khía cạnh nông cạn của vấn đề đó, và hiểu nông cạn những lời giải thích. Có thể kinh Kim Cang đă chứa đựng một ư nghĩa cao siêu hơn và những lời giải thích sâu sắc hơn mà chúng tôi đă không nh́n thấy. Cũng như tới đầu thế kỷ này, chúng ta tin rằng những định luật của Newton đủ cắt nghĩa cơ cấu Vũ Trụ, mà không ngờ rằng một lối giải thích tinh vi hơn, là thuyết Tương đối của Einstein đă làm đảo lộn cả sự hiểu biết cổ điển đó.

Chính v́ nghĩ thế nên chúng tôi cầu mong được quư vị cao minhƠ giải thích cho chúng tôi thấu đáo hơn kinh Kim Cang, bộ kinh vô song mà theo truyền thuyết, chỉ nghe qua một lần mà Lục Tổ Huệ Năng đă giác ngộ ngay. Trái lại, chúng tôi đă đọc đi đọc lại mấy chục lần mà vẫn thấy ḿnh c̣n ch́m đắm trong ṿng tục lụy. Nghiệp tiền kiếp sao mà quá nặng nề ? Biết đến bao giờ mới được đức Phật điểm nhăn cho .

KINH DIệU PHÁP LIÊN HOA.

I. Sự Cău Tạo Cuốn Kinh.

Theo giáo sư Hurvitz, có nhiều bản dịch từ Phạn ngữ sang Hán văn vào những năm 255, 286, 290, 335, 406 và 601, nhưng chỉ c̣n tồn tại những bản dịch thứ 3, thứ 5, và thứ 6. Bản dịch thứ 6 chỉ sao chép lại bản dịch thứ 5, có thêm bớt chút đỉnh không đáng kể. Bản dịch thứ 3 là của Dharmaraksa (223-300), một hậu duệ của người Iranians đă định cư tại tây bộ Trung Quốc từ nhiều đời, nên rất am hiểu chữ Hán, chỉ một ḿnh làm công việc dịch thuật. Trái lại, bản thứ 5 là của Kumarajiva (Cưu Ma La Thập ) (350-410), ít am hiểu chữ Hán, nhưng lại được chỉ huy một thư quán được nhà vua bảo trợ, có nhiệm vụ dịch kinh Phật từ Phạn ngữ sang Hán văn. Thư quán gồm nhiều tăng sĩ vừa có học vấn cao vừa có văn tài lỗi lạc. Do đó mà bản dịch của Kumarajiva hay hơn, dễ đọc hơn, và sau đánh bại hẳn bản dịch của Dharmaraksa, và được dùng làm bản chánh để nghiên cứu kinh Diệu Pháp Liên Hoa trong khắp các nước Đông Nam Á.

II. Tư tưởng Phật giáo Đại Thừa trong kinh.

Bộ kinh này biểu lộ một hướng của Phật giáo, gọi là Đại Thừa, khác với Tiểu Thừa về 2 điểm : Một là người theo Đại Thừa cố gắng độ tất cả chúng sinh, chứ không riêng ḿnh. Hai là Đại Thừa cố gắng đi tới Chân Lư tuyệt đối, chứ không hạn hẹp trong sự nghiên cứu các hiện tượng. Nói vậy không có nghĩa là 2 điểm đó hoàn toàn thiếu trong tư tưởng các giáo phái Nguyên Thủy, mà chỉ có nghĩa là Đại Thừa đă phát triển những mầm mống đó tới mức cùng cực.

Ngoài ra, giáo sư Hurvitz, căn cứ vào ngôn ngữ học để nhận xét văn phạm của lời kinh, c̣n nhận định rằng kinh Pháp-Hoa, cũng như các bộ kinh khác của Đại Thừa, đă được viết ra sau một thời kỳ khá lâu, sau khi tư tưởng Đại Thừa đă được phát triển khá mạnh, trước bằng những bài kệ dễ nhớ, rồi sau mới thêm vào phần giải thích bằng tản văn, dễ diễn tả ư kiến hơn. V́ đó, ông nhận thấy bộ kinh có 2 tầng lớp, một cái cũ (phần Kệ) chú trọng đến việc giải thích chỉ có một đường lối giải thoát, một thừa (Bồ Tát thừa) chứ không phải ba ; Thanh Văn thừa và Duyên Giác thừa chỉ là quyền thừa. Hai là tầng lớp mới (phần tản văn) chú trọng đến việc giải thích rằng đức Phật không bị hạn chế bởi không gian và thời gian, mà Ngài hiện hữu khắp các thế giới và mọi kiếp. Tuy vậy, hai ư chính đó cũng có khi trộn lẫn với nhau trong những đoạn thêm thắt về sau, và phần tản văn (mới hơn) lại được đặt trước phần kệ (cũ hơn). Bây giờ ta hăy nghiên cứu kỹ càng hai điểm trên :

1) Đức Phật thật là ǵ ? Những giáo phái Nguyên Thủy nghĩ rằng đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật là một trong nhiều đức Phật đều giống nhau trong vài điểm chính sau đây : Các Ngài luôn luôn được thác sinh làm Hoàng tử, đă trải qua kinh nghiệm rằng cuộc đời là khổ năo, rồi bỏ nhà đi tu, sống một cuộc đời khổ hạnh nhưng vẫn không thấy được giải thoát, rồi hốt nhiên trực giác được đạo giải thoát, rồi đem đạo đó truyền bá cho chúng sinh, và cuối cùng tịch diệt mà không hề tái sinh.

Khi tư tưởng Đại Thừa phát triển, th́ nói rằng đó chỉ là ứng thân của đức Phật vĩnh cửu (Hai thân khác là Báo thân chỉ hiện h́nh cho các vị Bồ Tát trông thấy, và Pháp thân th́ bất khả tư nghị, v́ chính là Chân Như). Trong kinh Pháp-Hoa, đức Phật cho chúng hội thấy Báo thân hoặc Pháp thân của Ngài vượt khỏi không gian và thời gian.

2) Có ba thừa hay một thừa ? Trong tư tưởng của phái Nguyên Thủy, đức Phật là một Giác Giả, tự giác rồi chuyển pháp luân để độ chúng sinh, nói Tứ Diệu Đế cho hàng Thanh Văn, và giáo lư Thập Nhị Nhân Duyên cho hàng Duyên Giác, vậy Thanh Văn thừa và Duyên Giác thừa đều là những giáo pháp đưa đến giải thoát. Đại Thừa phản ứng lại, nói rằng hai thừa trên chỉ là quyền thừa mà thôi, tuy có đưa đến giải thoát nhưng không đưa đến Phật quả, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong kinh Pháp-Hoa, nói rơ chỉ có một thừa là Bồ Tát thừa, để đi tới thành Phật, cứu cánh rốt ráo và duy nhất mà mọi Phật tử không những nên mà c̣n có thể đạt được.

III. Mục lục cuốn kinh. Theo Hải ấn đại sư (và được ghi trong cuốn kinh của đại sư Thích Trí Tịnh th́ ngoài một phẩm tổng hiển là phẩm Tựa, có thể phân chia 27 phẩm c̣n lại của kinh Pháp-Hoa làm 4 phần : khai, thị, ngộ, nhập :

A. Phần tổng hiển : phẩm Tựa (1)
B. Phần khai : gồm có 9 phẩm (2-10)
C. Phần thị : gồm 1 phẩm (11)
D. Phần ngộ : gồm 11 phẩm (12-22)
E. Phần nhập : gồm 6 phẩm (23-28)

I. Phẩm Tựa.

1) Sao gọi phẩm này là phẩm Tựa ? V́ nó giới thiệu chúng hội tựu tập tại núi Kỳ Sà Quật để nghe đức Phật thuyết pháp. Chúng hội gồm có các bực A La Hán, Bồ Tát, các đấng trên cơi trời, và vua A Xà Thế cùng quyến thuộc. Trước hết đức Phật nói kinh "Vô lượng nghĩa giáo Bồ Tát Pháp Phật sở hộ niệm ".Rồi Ngài ngồi im nhập định, trong khi đó th́ trời rưới bốn thứ hoa, và đất lay sáu điệu. Tự lông trắng giữa chân mày của Ngài phóng hào quang chiếu thấu một vạn tám ngh́n thế giới, dụ cho 18 giới : 6 trần, 6 căn và 6 thức của chúng sinh, dưới thời chiếu đến địa ngục A Tỳ, trên suốt thấu trời Sắc cứu cánh. Và khiến cho chúng sanh ở cơi này đều thấy cả sáu loài chúng sanh ở các cơi kia.

Trên 40 năm thuyết pháp, đức Phật chưa từng hiển phát cảnh giới này là v́ căn cơ của chúng sanh chưa thuần thục, c̣n phải chờ đợi thời chín mùi. Đến nay đă đến lúc nên đức Phật mới hiển phát. Ngài Di Lặc Bồ Tát chưa hiểu, phải hỏi Ngài Văn Thù Bồ Tát tại sao hôm nay đức Phật lại làm phép lạ chưa từng thấy. Ngài Văn Thù Bồ Tát bèn dẫn việc xưa của Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật, cũng đă từng phóng hào quang như thế, khiến cho trời mưa hoa và cơi đất sáu điệu vang động. Và khi đó Diệu Quang Bồ Tát nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa để giải thích, và Bồ Tát Cầu Danh không hiểu. Diệu Quang Bồ Tát chính là tiền thân của tôi (Văn Thù) ngày nay, và Cầu Danh Bồ Tát chính là tiền thân của ngài (Di Lặc) ngày nay. Cho nên tôi biết rằng ngày hôm nay đức Phật phóng hào quang, tức là Ngài sắp nói pháp Đại Thừa.

2) Ngay ở phẩm đầu tiên này, chúng ta đă thấy kinh Pháp-Hoa tràn ngập không khí mầu nhiệm, bất khả tư nghị, chứ không c̣n ở b́nh diện lịch sử nữa như khi đức Phật nói Tứ Diệu Đế, hoặc cả khi Ngài giảng kinh Kim Cang, tuy đă cao siêu nhưng c̣n ở mức mà tâm thức chúng sinh c̣n hiểu được, nên không cần phóng hào quang. Trái lại, trong kinh Pháp-Hoa này, nói đến chúng hội đông tới mấy chục vạn, không những chỉ có người mà c̣n cả quỷ thần mà mắt phàm không nh́n thấy, nói đến hào quang chiếu sáng đến địa ngục và các tầng trời mà mắt phàm không thể thấy được nếu không được thần lực của Phật hộ tŕ.

Vấn đề đặt ra là : phải chăng những phép lạ đó chỉ là những kư hiệu để diễn tả những ư kiến trừu tượng, hay là phép lạ có thực ? Phàm phu chúng ta có thể nghiêng về lối hiểu thứ nhất, chỉ tin vào cái ǵ giác quan thô thiển của chúng ta cảm thọ được. Đó cũng là quan điểm của khoa học duy lư và duy nghiệm, nhưng may thay khoa học ngày nay đă và đang tiến dần đến sự thoáng thấy cơ cấu kỳ diệu của Vũ Trụ bằng những cực vi vừa có trọng lượng vừa là năng lượng, như quarks, neutrons và vũ trụ tuyến, hoạt động kỳ bí như những ma quái ; kỳ bí v́ khoa học chưa hiểu được. Những phép lạ nói trong các kinh Đại Thừa cũng vậy, phàm phu không tin nổi v́ mắt phàm không nh́n thấy các quỷ thần, địa ngục và các tầng trời, v́ tai phàm không nghe thấy tiếng của Vũ Trụ vang động. Do đó mà hàng Tiểu Thừa không có ghi những phép lạ đó trong Tam tạng của họ. Phải nhờ thần lực của Phật và pháp lực các Bồ Tát hộ tŕ, thời tín nam tín nữ mới nhận thấy những cảnh mầu nhiệm đó. Tin là đức tính cần thiết để học đạo, tất khó được, nhưng một khi được th́ cửa trời sẽ rộng mở thênh thang.

II. Phẩm Phương Tiện.

1) Phương tiện là ǵ ? Là những diệu xảo để đạt gián tiếp một mục đích khó khăn không thể đạt trực tiếp được. Ví dụ khi chống quân xâm lăng quá mạnh không thể dàn trận để đối địch, mà phải dùng chiến lược vườn không nhà trống, cắt đứt đường tiếp lương của địch, đột kích các đồn địch nhỏ, và tất cả những phương tiện đó đều nhằm mục đích tối hậu là xua đuổi quân xâm lăng ra khỏi bờ cơi.

2) Trở về phương tiện của đạo Phật là ǵ ? Là v́ nếu đức Phật nói thẳng ngay nhất thừa khó hiểu quá, cao xa quá, th́ e rằng phần đông chúng sanh kinh nghi không dám tin. Quả thật, khi thấy đức Phật nói vậy, có 5.000 người vừa Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Cận sự nam, Cận sự nữ, liền đứng dậy lễ Phật mà lui, không ở lại, đức Phật yên lặng không ngăn cản.

Bấy giờ đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất : "Trong chúng ta đây không c̣n cành lá, rặt có hột chắc. Những gă tăng thượng mạn như vậy lui về cũng là tốt. Bây giờ ông khéo nghe, ta sẽ v́ ông mà nói. Pháp lớn này không phải là suy lường phân biệt mà có thể hiểu, nên không thể nói thẳng ngay được. Như thế ba thừa chỉ là quyền thừa, gốc từ nhất thừa mà ra. Chư Phật dùng sức phương tiện nói một thừa mà phân biệt thành ba. Mặc dầu là phương tiện dẫn dụ, nhưng kỳ thật là đưa đến con đường chân thật, con đường đi thẳng đến quả vô thượng. Sở dĩ Phật ra đời v́ để nói Phật-tri-kiến, nay chính đă đến giờ. Nay ta bỏ phương tiện trước, chỉ nói nhất thừa vô thượng."

III. Phẩm Thí Dụ.

1) Nhơn v́ trong phẩm phương tiện trước, đức Thế Tôn thẳng một mực thổ lộ chơn thừa, ngài Xá Lợi Phất, bậc trí huệ thượng thủ trong chúng hội Thanh Văn, liền lănh hội trước nhất, nghĩ nhớ lại từ trước mê lầm không tự nhận, nên tự trách tự hờn, đến nay mới tin chắc rằng sẽ đặng làm Phật. Do đó ngài Xá Lợi Phất liền được đức Thế Tôn thọ kư. ư nghĩa thọ kư là thế nào ? Là dù vậy, song c̣n phải trải qua nhiều kiếp số tu hành mới đặng thành Phật, phải tu tập dứt trừ đến khi vô minh hết hẳn.

2) Dầu tự ḿnh đă quyết định tin chắc nhưng c̣n lo trong chúng hội chỗ tín nhận chưa hoàn toàn thấu đáo, nên ngài Xá Lợi Phất lại ân cần thỉnh đức Thế Tôn v́ tứ chúng mà nói rơ : sở nhơn v́ saoƠ thuở trước Phật nói quyền , nay lại bỏ quyền nói thật, để dứt hẳn ḷng nghi của toàn chúng hội.

3) Đức Thế Tôn bèn nói thí dụ nhà lửa : Xưa có ông Trưởng giả tuổi đă già suy, của giầu vô lượng. Nhà ông rộng lớn mà chỉ có một cửa để ra vào, bỗng phát hỏa. Các con ông ngu dại, ở chỗ nguy hiểm mà vẫn mê say vui đùa không hay không biết, dụ cho sự mê lầm tham chấp của chúng sanh. Trưởng giả muốn cứu con, trước nói thật trạng hiểm nguy mà các con không hiểu, không nghe theo, sau cùng phải quyền nói hứa cho ba thứ xe để ngoài cửa. Các con v́ ham xe mà ra khỏi nhà lửa. Trước hứa ba xe, mà lúc sau, khi các con đă ra khỏi chốn khổ nguy, đồng ban cho một thứ xe trân báu cao rộng, đẹp nhất : chỉ rơ ư nghĩa ngày nay đức Phật lập thật giáo, phế quyền thừa.

IV. Phẩm Tín Giải.

1) Lúc bấy giờ các ngài Huệ Mạng Tu Bồ Đề, Ca Chiên Diên, Ca Diếp và Mục Kiền Liên, bốn vị đại đệ tử, nhơn thấy ngài Xá Lợi Phất đă lănh hội tỏ ngộ và được thọ kư thành Phật, lại nhơn nghe lời thí dụ vừa rồi của đức Thế Tôn cho nên sanh ḷng vui mừng vô lượng, hiểu rơ quả vị của ḿnh mà chứng trước kia là quyền, tin chắc Phật thừa được nghe hôm nay là chơn.

2) Rồi bốn ngài ở trước đức Phật tự nói dụ Cùng Tử : Có người tuổi thơ bé, bỏ cha trốn đi ở lâu nơi nước khác. Lúc đă lớn lại thêm nghèo cùng khốn khổ, giong duổi bốn phương để cầu đồ mặc vật ăn, dạo đi lần lần t́nh cờ về bổn quốc. Được gặp cha không nhận mà trở lại sợ, chỉ hốt phân để được tiền công nhỏ mọn từng ngày. Người cha vẫn thương con, muốn nhận nó ngay nhưng biết nó chí ư hạ liệt, nên đến khi thấy nó đă vững tin, mới trao tất cả sự nghiệp cho nó.

Bốn ngài mượn việc của cùng tử để dụ cảnh huống của ḿnh, mà cũng là của mọi người, thơ ngây xa Phật lưu lạc trong luân hồi, nổi trôi trong sanh tử đến ngày gặp đặng Phật lại không biết là chính cha lành mà trở lại sợ, nhờ Phật phương tiện cho ở quả vị tiểu thừa, tự an phận nơi đó, không tin ḿnh chính là con của Phật,

V. Phẩm Dược Thảo Dụ.

1) Đă được nghe Ma Ha Ca Diếp nói lên ḷng tin của các đại đệ tử, rằng ba thừa chỉ là nhất thừa, đức Phật c̣n e ngại họ nghĩ rằng Ngài tác ư tùy cơ nói ba thừa sai khác. Bởi vậy Ngài nói thêm dụ Dược Thảo này : Mây đầy trời che trùm muôn vật, đồng một loạt mưa xuống chỉ rưới một thứ nước, cũng không chỗ ít nhiều. Mặc dầu một trận mưa không mẩy mún riêng tư nhưng cỏ cây tùy phận được đượm nhuần mỗi mỗi riêng khác. Cỏ dụ cho hàng Thanh Văn và Duyên Giác, c̣n cây dụ cho các vị Bồ Tát. Cỏ cây hấp thụ nước mưa không đồng, nhưng không đồng là tự nơi cây cỏ giống loại sai khác chớ nước mưa chỉ một vị thôi.

2) Đức Như Lai thuyết pháp cũng thế, ḷng từ rộng lớn bao bọc cả quần sanh, pháp của Như Lai vốn không sai khác, mà có sai khác là tự ở nơi cơ của chúng sanh không đồng. Do đây mà thấy rơ ư thú "chỉ có một thừa, không hai cũng không ba". Làm cho người nghe dụ Dược Thảo, liền trừ chấp kiến, có thể đi sâu vào pháp huệ b́nh đẳng của Như Lai, chính là khai hiển Phật-tri-kiến vậy.

VI. Phẩm Thọ Kư.

Trước tiên là ngài Xá Lợi Phất được thọ kư sẽ thành Phật. Rồi sau đến bốn vị Ma Ha Ca Diếp, Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề và Ca Chiên Diên, cũng đă hiểu ba thừa vốn không thiệt, nên đức Thế Tôn tuần tự thọ kư cho bốn ngài.

VII. Phẩm Hóa Thành Dụ.

1) Trong pháp hội c̣n có một số Thanh Văn căn chậm lụt, từ lâu cho rằng quả vị đại giác của Phật ḿnh không thể chứng. Đến nay thói quen kém hèn vẫn chưa dứt, cho rằng : Năm ngài là bậc đại đệ tử của Phật nên đáng đặng thọ kư, c̣n chúng ta chắc khó đặng dự phần.

2) Đức Phật bèn nhắc việc thủa xưa, có Đại Thông Trí Thắng Phật, khi chưa xuất gia có 16 người con trai. Đến lúc ngài thành đạo, 16 vị vương tử thỉnh cầu ngài chuyển pháp luân, và tất cả đều chứng đặng đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vị thứ 16 chính là Thích Ca Mâu Ni Phật.

3) Muốn hiểu rơ nghĩa tam thừa là quyền, tạm lập ra chỉ để trừ ḷng chán nản sợ sệt của chúng mà thôi, nên đức Phật nói dụ "Hóa Thành". Đức Phật là vị đạo sư tài trí dẫn đường, đưa chúng vượt qua con đường hiểm trở dài xa vô minh. Nửa đường chúng sợ, muốn trở lại. Đạo sư phải dùng thần lực hóa ra thành tŕ để cho chúng có chỗ tạm nghỉ khỏi phải trở lui. Thành tŕ do thần lực biến hóa ra chớ nào phải thật. Chúng hết mệt hết sợ, th́ đạo sư lại diệt hóa-thành, lại đưa chúng tiến lên con đường thẳng đến bảo sở.

4) Tam thừa Niết Bàn nào khác hóa-thành, tạm thời trụ nơi đó rồi lại phải rời ra, v́ nào phải là cơ sở chơn thật mà ở măi được, thủy chung rồi cũng chỉ một thừa là chơn thật, là con đường duy nhất đưa đến quả vô thượng chánh đẳng chánh giác.

VIII. Phẩm Ngũ Bá Đệ Tử Thọ Kư.

1) Năm trăm vị đệ tử trước kia nghe năm vị thượng thủ được thọ kư, vừa rồi lại được nghe dụ Hóa-Thành, mới biết rằng đức Phật dùng vô lượng thần thông phương tiện dẫn dắt chúng sanh, tự tin chắc ḿnh quyết định thành Phật. Phật huệ đă hiển, tri-kiến đă khai, nên đức Thế Tôn tuần tự thọ kư cho cả.

2) Được thọ kư xong, 500 vị nói dụ sau này : Có người đến nhà bạn thân say rượu mà nằm, lúc đó người bạn thân có việc gấp phải đi, lấy châu báu cột trong áo của gă say, cho đó rồi đi. Gă say mèm không hay biết, sau khi dậy bèn đi nước khác mưu sinh rất là khổ nhọc, nếu có được chút ít bèn cho là đủ. Lúc sau người bạn thân gập gỡ thấy gă bèn bảo rằng : "Lạ thay ! Sao lại ăn mặc tồi tệ như thế ? Ta lúc trước đă đem châu báu cột vào trong áo anh, nay vẫn c̣n đó mà anh không biết, lại đi nhọc nhằn cầu mưu sinh thật là khờ lắm. Nay anh nên đem ngọc báu đó đổi chác lấy đồ cần dùng, sẽ không thiếu thốn." Đức Phật cũng lại như vậy, lúc làm Bồ Tát giáo hóa chúng con khiến phát ḷng cầu nhứt-thiết-trí, mà chúng con liền bỏ quên không biết. Đă được đạo A La Hán tự nói là diệt độ. Ngày nay đức Thế Tôn giác ngộ chúng con mà bảo rằng chúng con chưa thiệt được diệt độ. Chúng con nay mới biết ḿnh thiệt là Bồ Tát được thọ kư sẽ thành đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác.

IX. Phẩm Thọ Học Vô Học Nhân Kư.

1) Với 500 vị A La Hán đă được thọ kư, như thế là đă an ủi ḷng đại chúng rồi. Nhưng c̣n hàng tân học Thanh Văn, như các ngài A Nan, La Hầu La, v.v. đức Phật cũng đều thọ kư cho cả để toại ḷng trông mong của chúng, mà cũng là để chỉ rơ rằng Phật pháp không hề thừa sót.

2) Thọ học hay hữu học là bậc phải học rồi mới hiểu, tức là hàng Thanh Văn, c̣n vô học là bậc không cần học mà đă hiểu, tức là hàng A La Hán.

X. Phẩm Pháp Sư.

1) Phẩm này nói về sức mầu nhiệm vô lượng của kinh Pháp-Hoa, và về công giáo hóa của pháp sư. Nếu có người nào nghe pháp, không một ai chẳng thành Phật, nhẫn đến chỉ một niệm vui theo thời cũng nên Phật quả. Nhưng tuy rằng tất cả chúng sanh đều có chánh nhân Phật tánh, nếu không có diệu pháp để làm thắng duyên giúp cho phát lộ, nghĩa là nếu không có pháp sư chỉ bảo cho thời khó mong chóng thành chánh quả.

2) Pháp sư có 5 hạng :

- Tùy hỉ pháp
- Đọc tụng pháp sư
- Thọ tŕ pháp sư
- Thơ tả pháp sư
- Giảng thuyết pháp sư.

3) Kinh Pháp-Hoa này là toàn thân của đức Phật, gánh vác kinh này chính là gánh vác đức Như Lai, v́ thế nên phải kính trọng pháp sư là người hoằng truyền khiến cho giống Phật không dứt mất.

XI. Phẩm hiện bửu pháp.

1) Lúc bấy giờ trước Phật có tháp bằng bẩy báu, từ dưới đất nổi lên trụ ở giữa hư không, và trong tháp báu vang tiếng lớn ra khen rằngƠ : "Hay thay ! Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn ! Có thể dùng huệ lớn b́nh đẳng v́ đại chúng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa ". Và đức Phật giải thích : "Trong tháp báu này có toàn thân Như Lai, thời quá khứ có Phật hiệu là Đa Bảo, đức Phật đó dùng sức nguyện thần thông nếu nơi nào có nói kinh Pháp-Hoa, thời tháp báu sẽ nổi ra."

2 ) Bây giờ ngài Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát bạch Phật rằng : "Chúng con nguyện muốn thấy thân của đức Phật đó." Phật bèn phóng một lằng sáng nơi lông trắng giữa chân mày, liền thấy hằng hà sa số cơi nước ở khắp mười phương, đều thanh tịnh, cây báu trang nghiêm, có các đức Phật đều ngồi toà sư-tử, sai vị thị giả qua thăm viếng đức Thích Ca Mâu Ni Phật, yêu cầu Ngài mở tháp báu.

3) Khi ấy đức Thích Ca Mâu Ni Phật dùng ngón tay hữu mở cửa tháp vang ra tiếng lớn. Tức thời tất cả chúng trong hội đều thấy đức Đa Bửu Như Lai ở trong tháp báu ngồi ṭa sư-tử, toàn thân không ră như vào cảnh thiền định, chia nửa toà cho Thích Ca Mâu Ni Phật.

4) Bấy giờ hàng đại chúng thấy hai đức Như Lai xếp bằng trên ṭa sư-tử trong tháp báu thời đều nghĩ rằng : "Đức Phật ngồi trên cao xa, cúi mong Ngài dùng sức thần thông làm cho bọn chúng con đều được ở trên hư không." Tức thời đức Thích Ca Mâu Ni Phật dùng sức thần thông tiếp hàng đại chúng đều ở hư không, rồi bảo rằng : "Ai có thể ở trong cơi Ta Bà này rộng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nay chính phải lúc. Như Lai không bao lâu sẽ vào Niết Bàn. Phật muốn đem kinh Pháp Hoa này phó chúc cho con người."

XII. Phẩm Đề Bà Đạt Đa.

1) Do v́ trước kia các hàng Thanh Văn ôm ḷng sợ sệt Phật đạo dài xa. Đến nay dầu đă nhờ đức Phật thọ kư, nhưng c̣n phải trải qua nhiều kiếp mới đặng Phật quả, sợ rằng trong thời gian đó túc tập phát khởi, nửa chừng ngưng trệ không khứng siêng cầu.

2) Đức Thế Tôn bèn tự dẫn việc đời trước của ḿnh, dầu làm vua mà cũng phủ bỏ để cầu Tiên Nhơn. Tiên Nhơn này là tiền thân của Đề Bà Đạt Đa, truyền cho vua Diệu Pháp nên vua thành quả vị Bồ Đề. Đức Phật lănh thọ Pháp Hoa, Đề Bà Đạt Đa tuyên truyền Pháp Hoa, một hiện thành Phật, một sẽ thành Phật, để hiển lộ rơ thành Phật chung quy không ngoài Diệu Pháp Liên Hoa.

3) Lại sợ rằng hàng đệ tử hạ liệt v́ thấy khó mà không gắng tấn, cho nên kế đó hiển bầy việc giáo hóa của ngài Văn Thù Sư Lợi ở long cung, chưa bao lâu mà đă độ được vô lượng chúng sanh thành Bồ Tát. Lại thêm Long Nữ mới tám tuổi mà trong khoảng hiến bửu châu, bỗng nhiên biến thành nam tử, qua thế giới Vô Cấu thành bực Chánh Giác, diễn nói phép mầu. Tất cả những kết quả vĩ đại mau chóng như thế đều nhờ sức của Diệu Pháp Liên Hoa.

XIII. Phẩm Tŕ.

1) Chúng hội thời đức Phật c̣n tại thế, vậy là đă đủ duyên và được thọ tŕ. C̣n chúng sanh sau khi đức Phật diệt độ, tội nặng phước mỏng, chướng sâu, huệ kém, nếu không có người phụng tŕ th́ giống Phật phải dứt mất, đức Thế Tôn thầm lo như vậy.

2) Các vị Bồ Tát, 500 vị A La Hán, và 8,000 bực hữu học và vô học đă được thọ kư, đều hiểu mối thầm lo của đức Phật và nguyện phụng tŕ kinh này ở đời vị lai, rộng bầy diễn nói chẳng quản khó nhọc, chẳng tiếc thân mạng.

3) Nhưng đức Phật vẫn yên lặng v́ Ngài e ngại chúng Thanh Văn pháp lực không đủ. Các vị Đại Bồ Tát hiểu ư, bèn lớn tiếng phát lời thệ rằng : " Thế Tôn ! Sau khi Như Lai diệt độ, chúng con đi giáp ṿng qua lại khắp mười phương thế giới, khiến chúng sanh biên chép kinh này, thọ tŕ, đọc tụng, giải nói nghĩa đó, đúng như pháp mà tu hành, như thế đều là sức oai thần của Phật " (v́ các ngài không dám tự phụ sức ḿnh, nên nói hộ tŕ được là nhờ thần lực của Như Lai)Ơ

XIV. Phẩm An Lạc Hạnh.

1) Lúc bấy giờ ngài Văn Thù Sư Lợi đại bồ tát bạch Phật rằng : "Ơ Các vị đại Bồ Tát ở đời ác sau, thế nào mà có thể nói kinh này ?"

2) Phật bảo : "Nếu vị Bồ Tát ở đời ác sau muốn nói kinh này, phải an trụ trong bốn pháp :

a) Hành xứ và thân cận xứ : Chỗ sở hành và chỗ thân cận của Bồ Tát phải thường tương ứng với tánh giới, bề trong thời an trụ nơi đệ nhất nghĩa thật tướng (nghĩa là hư không, chẳng sanh, chẳng khởi, không danh, không tướng, chỉ do nhân duyên mà có). Bề ngoài thời xa những mầm nạn ác hạnh, tránh tất cả những điều cơ hiểm (nghĩa là xa rời quốc vương, các vị quyền quư, phụ nữ, đồ tể, kẻ săn bắn và chài lưới, v.v.)

b) Ngừa lỗi nơi khẩu nghiệp, làm cho mọi người đều hoan hỉ, thời khỏi chướng nạn.

c) Chớ đua dối, ghét ganh, tức là tâm xa rời tất cả phiền năo cấu trược, kính trọng người trên, không khinh kẻ dưới.

d) Sanh ḷng từ bi thệ độ tất cả, như thế thời không xa bỏ chúng sanh, không sanh niệm mỏi mệt nhàm chán.

XV. Phẩm Tùng Địa Dũng Xuất.

1) Lúc bấy giờ các vị đại Bồ Tát ở cơi nước phương khác đông hơn số cát sông Hằng, xin nguyện ở lại cơi Ta Bà này để hộ tŕ kinh. Nhưng đức Phật khước từ lời nguyền hộ tŕ kinh của các Bồ Tát ở tha phương, chính để hiển rơ ư từ ngoài đến không quư bằng tự nhà có sẵn. ứng theo lời đức Phật, đại địa rúng nứt, vô lượng Bồ Tát từ dưới đất vọt lên, đến tháp báu lễ Phật.

2) Bấy giờ ngài Di Lặc Bồ tát cùng các Bồ Tát khác đều nghĩ rằng : "Chúng ta từ xưa, chẳng thấy, chẳng nghe các đại Bồ Tát như thế từ dưới đất vọt lên.", nên hỏi rằng :" Các vị oai đức lớn, ai giáo hóa cho thành tựu thọ tŕƠ kinh ǵ ? tu tập Phật đạo nào ?"

Đức Phật bèn bảo : "Các hàng đại Bồ Tát vô lường, vô số a-tăng-kỳ, từ dưới đất vọt ra mà các ông từ xưa chưa từng thấy đó, chính ta ở cơi Ta Bà giáo hóa chỉ dẫn các Bồ Tát đó."

3) Nhưng ngài Di Lặc bồ Tát cùng vô số chúng Bồ Tát, ḷng sanh nghi hoặc mà nghĩ rằng : "Thế nào đức Thế Tôn ở trong thời gian rất ngắn mà có thể giáo hóa vô lượng vô biên a-tăng-kỳ các đại Bồ Tát đó ?" V́ vậy nên các ngài nói dụ "cha trẻ con già" thuật ḷng nghi ngờ của ḿnh, để cầu đức Như Lai giải quyết. Phẩm kế đức Như Lai tự nói thọ-lượng để quyết nghi vậy.

XVI. Phẩm Như Lai Thọ Lượng.

1) Thấy các đệ tử c̣n nghi như thế, đức Phật bèn trả lời : "Từ ta thành Phật nhẫn lại, thật là lâu xa, thọ mạng vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, thường c̣n chẳng mất. Như nay chẳng phải thiệt diệt độ, mà nói sẽ diệt độ, đó là ta dùng phương tiện để giáo hóa chúng sanh. V́ sao ? V́ nếu thấy đức Như Lai thường c̣n chẳng mất, th́ những người đức mỏng sẽ sanh ḷng buông lung nhàm trễ. Trái lại, ta nói các đức Phật ra đời, khó có thể gặp gỡ, và các chúng sanh nghe lời như thế, ắt sẽ sanh ư tưởng khó gặp gỡ, ôm ḷng luyến mộ khát ngưỡng nơi Phật, bèn trồng cội lành. Cho nên đức Như Lai dầu chẳng diệt mà nói diệt độ. "

2) Ví như vị lương y, trí huệ sáng suốt, khéo luyện phương thuốc trị các bệnh. Ông đi xa, và các con ở nhà uống lầm thuốc độc, phát muộn loạn. Bấy giờ người cha từ nước xa trở về nhà, thấy các con khổ năo như thế, bèn chế thuốc đưa cho các con uống. Trong các con, những người chẳng thất tâm, uống và được lành mạnh. C̣n những người thất tâm không chịu uống. V́ sao ? V́ hơi độc đă thâm nhập làm mất bổn tâm, nơi thuốc thơm đẹp mà cho là không ngon. Người cha bèn dùng phương tiện, đi nước khác sai sứ về nói : "Cha các ngươi đă chết". Bấy giờ các con nghe tin cha chết, tự nghĩ ḿnh nay côi cút, không có chỗ cậy nhờ, ḷng thương bi cảm, tâm bèn tỉnh ngộ, biết thuốc này sắc hương vị ngon, liền lấy uống và lành bệnh. Người cha được tin các con đều đă lành mạnh, liền trở về cho các con đều thấy. Đức Phật cũng như thế, thọ mạng vô số kiếp, thiệt c̣n mà nói diệt độ, không có lỗi hư dối.

XVII. Phẩm Phân Biệt Công Đức.

Bởi Pháp thân vẫn thường trú ở thế gian, cảnh tịnh độ không rời cơi trược, nên đức Thế Tôn khuyên chúng hội : Nếu có người quán được như thế, phải biết đó là tướng thâm tín giải. Thâm tín giải là tin và hiểu pháp thân thường trú duy tâm chơn cảnh. Thân và cảnh đây rất sâu rất diệu, tin hiểu được thời công đức vô lượng vô biên. Cho nên đức Như Lai phân biệt công đức tŕ kinh bất khả tư nghị siêu việt tất cả hữu vi công đức như bố thí, cúng dường Phật.

XVIII. Phẩm Tùy Hỉ Công Đức.

Trong phẩm trước, đức Phật đă bảo tŕ kinh là một công đức lợi ích bất khả tư nghị. Đến phẩm này, Ngài lại c̣n bảo Một niệm tùy hỉ (nghĩa là chỉ nghe kinh mà đă vui theo, vui mừng hiểu rơ và tuân theo) c̣n là một công đức lớn hơn gấp nhiều lần.

XIX. Phẩm Pháp Sư Công Đức.

Trước đă rộng khen công đức tŕ kinh, nay trong phẩm này nói vị Pháp sư tŕ kinh Diệu Pháp Liên Hoa sẽ đặng sáu căn thanh tịnh, là :

1) Nhăn căn :Ơ thấy khắp cơi tam thiên đại thiên, trong ngoài có những núi, rừng, sông, biển, dưới đến địa ngục A-tỳ, trên đến cơi trời Hữu-Đảnh, cũng thấy tất cả chúng sanh trong đó và nghiệp nhân duyên quả báo, chỗ sanh ra thẩy đều thấy biết.

2) Nhĩ căn : nghe khắp cơi tam thiên đại thiên, dưới đến địa ngục Vô-gián, trên đến cơi trời Hữu-Đảnh, trong ngoài các thứ lời lẽ giọng tiếng : tiếng các loài voi, ngựa, rồng, dạ xoa, v.v. tiếng người, tiếng thánh nhân, tiếng khổ, tiếng vui, tiếng Thanh Văn, tiếng Bích Chi Phật, tiếng Bồ Tát, tiếng Phật.

3) Tỉ căn : ngửi thấy khắp cơi tam thiên đại thiên, trên dưới trong ngoài, các mùi bông sen, mùi chiên đàn, mùi chúng sanh : voi, ngưạ, trai gái, mùi cây cỏ, hoặc gần hoặc xa.

4) Thiệt căn : những món hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc ngon, hoặc dở, và các vật đắng chát, ở trên lưỡi người thọ tŕ kinh đều biến thành vị ngon như vị cam-lộ trên trời, không món nào là chẳng ngon.

5) Thân căn : người tŕ kinh được thân thanh tịnh như lưu ly. V́ thân đó trong sạch nên chúng sanh trong cơi tam thiên đại thiên, lúc sanh lúc chết, trên dưới, tốt xấu, sanh chỗ lành, chỗ dữ, v . v . đều hiện rơ trong đó.

6) ư căn : được thanh tịnh rồi th́ nghe kinh liền hiểu suốt thấu vô lượng nghĩa, và nếu nói kinh sách trong đời, lời lẽ trị thế, nghề nghiệp nuôi sống, v . v . đều thuận chánh pháp.

XX. Phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát.

1) Để chỉ rơ công hạnh tŕ kinh bền vững như thế nào, và kết quả như thế nào, trong phẩm này đức Phật tự thuật tiền thân của Ngài để chứng thật : Trong thời tượng pháp của Phật Oai-Âm-Vương, đức Thích Ca là một vị Bồ Tát tỳ kheo tên Thường-Bất-Khinh tŕ kinh Pháp-Hoa này và đem Phật huệ b́nh đẳng giáo hóa chúng sanh. Nhiều phen bị hủy nhục, nào bị mắng nhiếc, nào bị đánh đập, mà vẫn tuyệt nhiên không hề móng một niệm chán nản, không chút giận hờn cũng không biết mỏi nhọc.

2) Vị tỳ kheo đó lúc sắp chết, nơi giữa hư không nghe trọn hai mươi ngàn muôn ức bài kệ kinh Pháp-Hoa của đức Oai-Âm-Vương Phật đă nói thủa trước, nghe xong có thể thọ tŕ, liền đặng nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân cùng ư căn thanh tịnh. Rồi lại sống thêm hai trăm muôn ức na-do-tha tuổi, rộng v́ người nói kinh Pháp-Hoa.

XXI. Phẩm Như Lai Thần Lực.

1) Đến nay chúng hội hiện tiền đă viên ngộ, và chúng sanh ở thời vị lai cũng sẽ được các vị Bồ Tát nguyện bảo vệ vững vàng, cho nên đức Như Lai vui ḷng bèn tận hiện thần lực :

a) Khắp thân tất cả chân lông đều phóng ánh sáng soi khắp mười phương thế giới, lưỡi rộng dài đến trời Phạm Thế, tiếng vang khắp mười phương, cơi đất sáu điệu vang động, đó là toàn thân thổ lộ.

b) Đương hội chư Phật, tất cả cũng đều phóng ánh sáng hiện tướng lưỡi rộng dài, tiếng vang khắp mười phương, đó là hiển rơ nghĩa "Phật Phật đạo đồng" vậy.

c) Thập phương chúng sanh đều ở tại cơi ḿnh mà đồng thấy cơi Ta Bà, thấy bảo tháp, thấy các đức Như Lai, thấy chúng hội, v.v., đó là chỉ rằng : hễ t́nh mê cố chấp thời tri kiến bị hạn cuộc trong gang tấc, nay nhờ thần lực của đức Phật nên chỗ thấy triệt thấu.

d) Thập phương xướng truyền đức Phật cùng kinh Pháp-Hoa, đó là biểu nghĩa Phật, tâm và chúng sanh cùng tương ứng, tất cả mọi loài đồng đủ tự tánh Phật-tri-kiến vậy.

e) Mười phương thế giới thông đạt không ngại như một cơi Phật, chính là soi rỗng pháp thân chơn cảnh, trừ bỏ tâm hẹp ḥi hữu hạn của sơ tâm cùng nhị thừa vậy.

2) Thần lực của đức Phật quảng đại tự tại như thế, mà đức Như Lai c̣n nói rằng : Dầu ta có dùng thần lực trải qua vô lượng kiếp cũng không thể nói hết công đức của kinh Pháp-Hoa này, đó chính bởi v́ kinh này gồm nhiếp tất cả pháp của Như Lai, tất cả thần lực của Như Lai, tất cả tạng bí yếu của Như Lai cùng tất cả sự vụ của Như Lai.

XXII. Phẩm Chúc Lụy.

1) Lúc bấy giờ đức Thích Ca Mâu Ni Phật từ nơi pháp ṭa đứng dậy, hiện sức thần thông lớn, dùng tay mặt xoa đảnh của vô lượng đại Bồ Tát mà nói rằng : "Ta ở trong vô lượng kiếp tu tập pháp Vô thượng chánh đẳng chánh giác khó đặng này, nay đem phó chúc cho các ông, các ông nên phải một ḷng lưu bố pháp này làm cho thêm nhiều rộng. ở đời vị lai nếu có người thiện nam tử, thiện nữ nhân nào tin trí-huệ của Như Lai, thời các ông phải v́ đó diễn nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa này khiến đều đặng nghe biết, v́ muốn cho người đó đặng trí huệ của Phật vậy."

2) Lúc đó các vị đại Bồ Tát nghe Phật nói thế, đều rất vui mừng và lên tiếng bạch rằng : "Như lời Thế Tôn dậy, chúng con sẽ vưng làm đầy đủ, kính xin đức Thế Tôn chớ có lo."

3) Khi đó đức Thích Ca Mâu Ni Phật khiến các đức Phật phân thân ở mười phương đến, đều trở về bổn độ mà nói rằng : "Các Phật đều tùy theo chỗ an tháp của Phật Đa Bảo đặng hườn như cũ."

XXIII. Phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự.

1) Từ trước hiển lư đă viên, nay sẽ hiển "Hạnh" để chỉ rơ chứng nhập Phật-tri-kiến vậy. Do đó đức Phật nói Phẩm bổn sự của ngài Dược Vương, chính là chủ ư rằng dầu đă ngộ viên lư, nhưng vào tục lợi sanh, ắt cần nhờ thuốc hay chỉ quán, phương thần điều trị, để tiêu trừ vô minh phiền năo, phá ngă chấp và pháp chấp, thành diệu hạnh, mới có thể thật "chứng nhập" vậy.

2) Đức Phật kể : Thủa xưa có Phật hiệu Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai, ngài có vô số Bồ Tát, trong số đó có ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát, tinh tấn kinh hành, đặng "hiện nhất thiết sắc thân tam muội". Bèn cúng dường Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật và kinh Pháp-Hoa bằng :

a) Hiện ra hoa mạn đà la và bột chiên đàn rưới xuống ;

b) Rồi dùng sức nguyện thần thông mà tự đốt thân. Sau khi mạng chung, lại sanh trong nước của Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật. Nhưng đức Phật lại bảo ngài Bồ Tát rằng : "Giờ ta nhập Niết Bàn đă đến, ông nên sắp đặt giường toà". Rồi Phật diệt độ, Bồ Tát làm giàn hỏa, thâu lấy xá lợi, đựng trong b́nh báu, xây tháp báu.

c) Bấy giờ ngài Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát lại tự đốt cánh tay để cúng dường thêm, và lập lời thề rằng : "Tôi bỏ hai tay ắt sẽ đặng thân sắc vàng của Phật, nếu thiệt không dối, thời khiến hai tay tôi hoàn phục như cũ." Nói lời thề xong hai tay tự nhiên hoàn phục, đó là do phước đức trí huệ thuần hậu của Bồ Tát cảm nên.

3) Đức Phật nói tiếp : "Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát chính nay là Dược Vương Bồ Tát đó. Ông ấy bỏ thân bố thí số nhiều vô lượng trăm ngàn muôn ức na-do-tha như thế. Nếu có người phát tâm muốn đặng đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có thể đốt một ngón tay, một ngón chân để cúng dường tháp của Phật, th́ hơn đem quốc thành, thê tử, các vật trân báu mà cúng dường. Nếu lại có người đem bẩy thứ báu đầy cả cơi tam thiên đại thiên cúng dường, công đức của người đó chẳng bằng người thọ tŕ kinh Pháp-Hoa này nhẫn đến một bài kệ bốn câu. V́ kinh này là vua của các kinh."

4) Trong phẩm này nói rơ lư "ư sanh thân", nghĩa là khi đạo hạnh viên măn, th́ tâm tạo ra được thân thể, hoàn phục được chân tay đă tự thiêu. Hai phẩm kế là Diệu Âm và Quan Âm cùng một ư nghĩa.Ơ

XXIV. Phẩm Diệu Âm Bồ Tát.

1) Lúc bấy giờ đức Thích Ca Mâu Ni Phật phóng ánh sáng soi khắp các cơi. Trong đó có thế giới tên là Tịnh quang Trang Nghiêm, có đức Phật là Tịnh Hoa Tú Vương Trí, và Bồ Tát là Diệu Âm. Khi quang minh của đức Phật Thích Ca soi đến thân vị Bồ Tát đó, th́ vị này liền xin phépTịnh Hoa Tú Vương Tri Phật sang cơi Ta Bà để ra mắt đức Thích Ca Mâu Ni Phật cùng các vị Bồ Tát ở đó. Rồi chẳng rời khỏi ṭa, thân chẳng lay động mà vào trong tam muội, tới ngay núi Kỳ Xà Quật cách pháp ṭa chẳng bao xa, hóa làm tám muôn bốn ngàn hoa sen báu.

2) Theo lời yêu cầu của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, và sự ưng thuận của đức Phật, ngài Diệu Âm Bồ Tát liền hiện h́nh đảnh lễ. Ngài Hoa Đức Bồ Tát bèn hỏi : "Ngài Diệu Âm Bồ Tát trồng cội lành ǵ, tu công đức ǵ, mà có sức thần thông như thế ?" Và đức Phật trả lời : "Diệu Âm Bồ Tát này đă từng cúng dường gần gũi vô lượng các đức Phật, từ lâu trồng cội công đức. Hoa Đức ! Ông chỉ thấy Diệu Âm Bồ Tát thân h́nh ở tại đây, mà Bồ Tát đó hiện các thứ thân h́nh khắp nơi, v́ hàng chúng sanh nói kinh điển này. Ngài dùng tam muội tên là "Hiện nhứt thiết sắc thân" để hiện thân Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát hoặc thân h́nh Phật".

XXV. Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát.

Phổ Môn.

1) Phẩm Diệu Âm chỉ mới diễn tả quả "ư sanh Thân", c̣n phải tác ư xuất nhập tam muội cho nên có qua có lại. Đến Phẩm Phổ Môn lại đi xa thêm một bước, đức Quán Thế Âm Bồ Tát có thể phổ môn thị hiện không khứ không lai, không xuất nhập, cho nên nói rằng Phổ Môn thị Hiện, nghĩa là thị hiện khắp mọi nơi (phổ là phổ quát, phổ biến).

2) Trước tiên, Vô Tận ư Bồ Tát hỏi đức Phật : " Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát do nhân duyên ǵ mà tên là Quán Thế Âm ?" Và đức Phật giải thích : "Nếu có vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng sanh chịu các khổ năo, nghe Quán Thế Âm này một ḷng xưng danh, Ngài sẽ xem xét tiếng tăm kia, đều đặng giải thoát, dù là bị hỏa nạn, thủy nạn, v . v . Niệm danh Quán Thế Âm Bồ Tát c̣n diệt trừ được dâm dục, sân, si.

3) Vô Tận ư Bồ Tát hỏi thêm : "Quán Thế Âm Bồ Tát dạo đi trong cơi Ta Bà như thế nào ? Sức phương tiện việc đó thế nào ?" Và đức Phật trả lời : " Quán Thế Âm Bồ Tát có thể biến hóa thành thân Phật, Duyên Giác, Thanh Văn, tiểu Vương, trưởng giả, người nữ, v . v . để tùy người nói pháp thích hợp với người đó ".

4) Vô Tận ư Bồ Tát bèn dâng Quán Thế Âm Bồ Tát chuỗi ngọc. Lúc đầu Quán Thế Âm Bồ Tát không nhận, để diễn tả ư sau đây : Người niệm danh Phật hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát mà ư nghĩ chẳng lành ( ví dụ muốn buôn bán nhất bản vạn lợi), th́ không thành tựu được đâu. Phải có ư nghĩƠ chánh, th́ việc niệm Phật mới hiệu nghiệm.

5) Nói tóm lại, Quán Thế Âm là quán sát để phân biệt các tiếng nói của tâm tưởng, bất kỳ cảnh ngộ nào. Và mục đích của pháp Quán Thế Âm Bồ Tát là trong sạch hóa tư tưởng của ngươi tu tập. trọng tâm của pháp này là nghe tiếng mà thấy đạo, nghe tiếng mà hành đạo, thật là giản dị, không khó khăn như các pháp khác, như quán lư Sắc-Không.

XXVI. Phẩm Đà La Ni.

1) Đà La Ni nghĩa là tổng tŕ, gồm nhiếp các pháp. Bởi v́ thức tạng là hang vực rất sâu rất kín. Tập khí tiềm phục trong đó, sức Chỉ cùng Quán khó có thể vào đến, vào c̣n không đến được thời thế nào dứt trừ được, dứt trừ không được thời bị nó làm tổn. Do đó cần phải nhờ sức tổng tŕ thần chú để công phạt tập-khí, v́ tổng tŕ là tâm ấn bí mật của chư Phật vậy.

2) Có 3 môn gia tŕ là : Thần lực gia tŕ, Pháp lực gia tŕ, và hiện thân diện ngôn thuyết gia tŕ. Thần lực gia tŕ chính là phẩm Đà La Ni này. Trong phẩm này, lần lượt Dược Vương Bồ Tát, Dơng Thí Bồ Tát, Tỳ Sa Môn thiên vương, Tŕ Quốc thiên vương, rồi đến các La Sát nữ, nói ra các bài chú.

XXVII. Phẩm Diệu Trang Vương Bổn Sự.

1) Thủa xưa, có vị vua tên Diệu Trang Nghiêm, có vợ và hai con trai có sức thần thông lớn, phước đức trí huệ, từ lâu tu tập đạo hạnh của Bồ Tát. Nhưng vua lại tin theo ngoại đạo. Hai người con thương cha bèn bay lên hư không làm các phép lạ để cảm hóa cha : trên thân ra nước, dưới thân ra lửa, hoặc dưới thân ra nước, trên thân ra lửa, hoặc hiện thân lớn rồi lại hiện nhỏ, v . v . Vua thấy lạ, bèn hỏi nguyên do, và các con trả lời : "Chúng con học đạo nơi đức Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Phật nay đương ngồi trên pháp ṭa dưới cây bồ đề, rộng nói kinh Pháp-Hoa". Vua bèn theo vợ và con đến nghe, và đồng gia xuất gia, được chánh quả.

2) Trong phẩm này, Pháp Thân Bồ Tát đặng vô phân biệt tâm, tương ứng với trí dụng của chư Phật, nương pháp lực tự nhiên tu hành, chơn như nội huân diệt vô minh, cho nên gọi là pháp lực gia tŕ vậy.

XXVIII. Phẩm Phổ HIền Bồ Tát Khuyến Phát.

1) Lúc bấy giờ ngài Phổ Hiền Bồ Tát cùng vô lượng chúng đại Bồ Tát, và vô số các đại chúng : Trời, rồng, dạ xoa, Càn thát bà, nhân, phi nhân, v.v. đến cơi Ta Bà, trong núi Kỳ Xà Quật mà bạch Phật rằng : "Xa nghe nói cơi Ta Bà này nói kinh Pháp-Hoa, nên đồng đến để nghe thọ,Ơ cúi mong đức Thế Tôn nên v́ chúng con nói đó".

2) Phật bảo Phổ Hiền Bồ Tát rằng : "Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân thành tựu bốn pháp, thời sau khi Như Lai diệt độ sẽ đặng kinh Pháp-Hoa này : một là được các đức Phật hộ niệm, hai là trồng các cội công đức, ba là vào trong chánh định, bốn là phát ḷng cứu tất cả chúng sanh. "

3) Lúc đó ngài Phổ Hiền Bồ Tát bạch Phật rằng : "Thế Tôn ! Năm trăm năm sau trong đời ác trược, nếu có người thọ tŕ kinh điển này, con sẽ giữ ǵn trừ các sự khổ hoạn làm cho đặng an ổn."

4) Đức Phật khen ngợi và trao cho Phổ Hiền Bồ Tát nhiệm vụ hộ tŕ kinh Pháp-Hoa. "Nếu có người thọ tŕ, đọc tụng, ghi nhớ chơn chánh tu tập biên chép kinh Pháp-Hoa này, phải biết người đó thời là thấy đức Thích Ca Mâu Ni Phật như từ miệng Phật mà nghe kinh điển này. Phải biết người đó được Phật lấy tay xoa đầu. Phải biết người đó được Phật lấy y trùm cho, v . v ."

5) Trong phẩm Khuyến Phát này là hiển nghĩa chứng nhập, mà lại nói tín-thành-tựu đó, là v́ ban sơ do ngài Văn Thù phát tín nương tín sanh giải, nương giải phát hạnh, hạnh khởi giải tuyệt thành chứng-nhập, chính là viên măn thành tựu tín tâm vậy. Do những nghĩa trên đây, nên cần phải nhờ Phổ Hiền khuyến-phát đặng bốn pháp thời tất đặng kinh này.

Tổng Kết.

Trong phần đại cương của bài tiểu luận này, chúng tôi đă tŕnh bầy rằng bộ kinh Pháp-Hoa, ngoài phẩm Tựa, có thể chia làm 4 phần, lần lượt KHAI (mở tâm chúng sanh để đón nhận lời Phật dạy ; hộ tŕ chúng sanh THị (thấy) được pháp thân Như Lai ; giải thích rằng việc NGộ (hiểu) Phật-tri-Kiến khó khăn, đ̣i hỏi sự tu tập trong nhiều kiếp ; cuối cùng nói đến hạnh của Bồ Tát để chứng NHậP (vào) Phật-tri-kiến. Đến phần Tổng Kết này, chúng tôi sẽ tóm tắt lại các phẩm để quư đạo hữu thấy rơ cơ cấu của kinh Pháp-Hoa, đi từ ư kiến này đến ư kiến sau rất là mạch lạc :

- Phẩm Tựa (I) nói lên nhân do pháp hội, tràn ngập không khí mầu nhiệm, rồi Văn Thù Bồ Tát giải thích rằng phép lạ đó báo hiệu đức Phật sắp nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

Phần Khai.

-Phẩm Phương Tiện (2) nói rơ ba thừa chỉ là phương tiện để đi đến nhất thừa.

- Phẩm Thí Dụ (3) : Đức PHật ví cơi đời khổ năo như nhà lửa, muốn cho chúng sanh ra khỏi nhà lửa, Phật hứa cho ba cỗ xe, nhưng rồi cho cỗ lớn nhất dụ cho Đại Thừa.

-Phẩm Tín Giải (4) : Đă hiểu ư nghĩa đó, bốn đại đệ tử nói dụ Cùng Tử để hiển lộ ư chúng sanh trước kia không tin rằng ḿnh chính là con đức Phật, có phần Phật ở đạo, măi đến nay mới giải được ḷng tin đó.

- Phẩm Dược Thảo Dụ (5) : Đức Phật nói thêm rằng trận mưa không riêng tư, nhưng cây cỏ tùy loại được hưởng ít hay nhiều. Cũng vậy, Phật đạo b́nh đẳng, nhưng chúng sanh được độ ít hay nhiều, tùy theo căn cơ.

-Phẩm Thọ Kư (6) : Đức Phật bèn thọ kư cho 4 vị đại đệ tử.

-Phẩm Hóa Thành Dụ (7) : C̣n lại số đông A La Hán, nghĩ rằng chỉ có 4 vị đại đệ tử đă theo Phật thừa mới được thọ kư, c̣n ḿnh đă theo Duyên Giác thừa th́ khó dự phần. Đức Phật thương sót, bèn nói dụ Hóa Thành làm chỗ tạm nghỉ cho khách bộ hành. Quyền thừa cũng như vậy, cuối cùng phải bỏ để đi tới một Phật thừa mà thôi.

-Phẩm Ngũ Bá Đệ Tử Thọ Kư (8) : Sau khi nói phẩm trên, đức Phật thọ kư cho cả 500 đệ tử.

-Phẩm Thọ Học Vô Học Nhân Kư (9) : hạng Thanh Văn cũng được thọ kư.

-Phẩm Pháp Sư (10) : Vậy là cả 4 vị đại đệ tử, 500 vị A La Hán, rồi đến hạng Thanh Văn đều được thọ kư, nghĩa là được hứa sẽ thành Phật. Nhưng muốn đạt được chánh quả này, c̣n phải tu tập nhờ về công giáo hóa của Pháp Sư là người hoằng truyền kinh Pháp-Hoa.

Phần Thị.

Đă khai tâm chúng sanh xong, đức Phật bèn Hiện Bửu Tháp (11) để cho chúng sanh thấy rơ cảnh Phật nhiệm mầu, thấy đức Phật Đa Bảo từ thời quá khứ xa xưa vẫn c̣n ngồi y nhiên trong bửu tháp, hiển lộ ư rằng Phật dù có nói diệt độ nhưng thật ra vẫn hằng cửu.

Phần Ngộ.

Chỉ bầy Phật-tri-kiến không dễ ǵ đặng, các Phật tử phải bền ḷng không sợ đường xa :

-Phẩm Đề Bà Đạt Đa (12) : vị này trong hiện kiếp tuy có làm hại Phật, nhưng cũng đă khổ công tu tập rồi sau sẽ thành Phật.

-Phẩm Tŕ (13) : Các vị Bồ Tát nguyện hộ trợ chúng sanh trong những đời sau.

-Phẩm An Lạc Hạnh (14) : đức Phật nói rơ 4 hạnh An Lạc của các vị Bồ Tát để thủ hộ kinh Pháp-Hoa.

-Phẩm Tùng Đại Dũng Xuất (15) : không những Bồ Tát mười phương, mà cả những Bồ Tát ở cơi Ta Bà cũng từ dưới đất vọt lên để nguyện hộ tŕ Phật pháp.

-Phẩm Như Lai Thọ Lượng (16) : Nhưng các đệ tử c̣n nghi rằng trong thời gian rất ngắn đức Phật tại thế, làm sao có thể giáo hóa được vô lượng Bồ Tát ? Do đó đức Phật nói phẩm này để chỉ rơ ngài không phải chỉ là đức Phật Thích Ca lịch sử, mà Ngài đă trải qua vô lượng vô biên kiếp. Sự diệt độ của Ngài ví như vị lương y giả đi xa để khiến các con uống thuốc giải độc.

-Phẩm Phân Biệt Công Đức (17) : đức Phật nhấn mạnh rằng phải tin chắc rằng Pháp thân thường trú th́ mới ngộ được Phật-tri-kiến, công đức đó siêu việt tất cả hữu vi công đức như bố thí, cúng dường Phật.

-Phẩm Tùy Hỷ Công Đức (18) : chỉ một niệm tùy hỷ cũng là một công đức vô cùng to lớn.

-Phẩm Pháp Sư Công Đức (19) : cũng ư trên đối với các vị Pháp sư, sẽ được sáu căn thanh tịnh.

-Phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát (20) : nêu gương ngài Bất Khinh Bồ Tát, một tiền thân của đức Phật, đă tŕ kinh cực độ, dù bị hủy nhục vẫn không sân hận.

-Phẩm Như Lai Thần Lực (21) : Đến đây, thấy các đệ tử không c̣n nghi ngại ǵ nữa, nên đức Phật vui ḷng hiển lộ thần thông, phóng hào quang soi chiếu mười phương.

-Phẩm Chúc Lụy (22) : và trao trách nhiệm truyền pháp cho các vị Bồ Tát.

Phần Nhập.

Muốn nhập Phật-tri-kiến, phải làm hạnh đầy đủ sau khi đă tri Phật pháp. Phần này gồm có 6 phẩm cuối :

-Phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự (23) : nói về hạnh của Bồ Tát Dược Vương hy sinh cúng dường Phật.

-Phẩm Diệu Âm Bồ Tát (24) : nói về hạnh của Bồ Tát Diệu Âm, biến hóa hiện đủ thân h́nh.

-Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn (25) : cũng ứng hiện khắp mọi nơi khi nghe tiếng cầu cứu.

-Phẩm Đà La Ni (26) : dùng thần lực da tŕ, để công phạt tập khí.

-Phẩm Diệu Trang Nghiêm Bổn Sự (27) : dùng pháp lực da tŕ, để chuyển thức thành trí.

-Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát (28) : dùng hiện thân diệu ngôn da tŕ, được đức Phật ngợi khen và trao phó đặc biệt nhiệm vụ hộ tŕ kinh Pháp-Hoa.

Nói tóm lại, kinh Diệu Pháp Liên Hoa này là bộ kinh Đại Thừa, là vua trong các kinh, lời văn không khó hiểu lắm, nhưng đầy những phép lạ thần thông, kẻ không tin cho như là truyện Phong Thần hoặc truyện Khoa Học giả tưởng (science fiction). Cái khó là làm sao tin được ? Người Thiên Chúa giáo đă dám tin những phép lạ của đức chúa Jésus, tại sao Phật tử chúng ta lại không dám tin những phép lạ của bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật ? Niềm tin có thể di sơn đảo hải, có thể đưa người Thiên Chúa giáo đến bên cạnh chúa Jésus, cũng có thể biến kẻ phàm phu thành Phật.

Vậy chúng ta chớ quá nghi ngại. Cứ thành tâm thiện chí tụng kinh Pháp-Hoa, tự khắc sẽ thấy khởi tín, v́ cái phép lạ chính của bộ kinh này, không phải ở những phép lạ nói trong kinh, mà là ở chỗ nó khơi dậy được ở Phật tử niềm tin kỳ diệu, niềm tin chơn thật, không để cho lối suy tư phàm phu (căn cứ vào 6 thức ô nhiễm) che lấp mất bản thể Chơn Như vô cùng vi diệu, vô cùng trong sáng vẫn ở trong người chúng ta. Hơn thế nữa, để cho sự phát khởi niềm tin được dễ dàng hơn, xin đề nghị quư đạo hữu, sau khi học kinh này, tiếp tục học đến cuốn Lăng Kính Đại Thừa của cụ Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng, đối chiếu với những khám phá tối tân của khoa học hiện đại, cung cấp cho độc giả một ư niệm giản dị về sự cấu tạo của các pháp giới bằng thần lực của Phật, nguyện lực của Bồ Tát, và nghiệp lực của chúng sanh.

Mong rằng tất cả chúng ta, sau khi cùng nhau học tập kinh Pháp-Hoa và cuốn Lăng Kính Đại Thừa, sẽ phát được ḷng tin chân thật, ḷng tin có căn bản chứ không phải là ḷng tin hời hợt của những người không hiểu rơ.

(Đọc Tiếp Phần II)

Phước Quế Dương Đ́nh Khuê