Trong những
năm gần đây, phong trào Phật giáo được
phổ biến tại nhiều nước trên thế
giới, một phần là nhờ tinh thần cởi mở
ít tính giáo điều của Phật giáo. Người
phương Tây thường coi Phật giáo là một
ngành triết học. Thiên văn học nghiên cứu sự
tiến hóa của vũ trụ, sự sinh tử của
những v́ sao và nguồn gốc của sinh vật trên
trái đất, thậm chí cả khả năng có sự
sống trên những hành tinh khác. Do đó thiên văn học
là một đối tượng hấp dẫn đối
với các nhà Phật giáo, các nhà siêu h́nh học và triết
học.
Những lư thuyết cuả ngành vật
lư hiện đại cùng những kết quả quan
sát bầu trời bằng những kính thiên văn ngày
càng lớn giúp các nhà thiên văn đi ngược ḍng
thời gian để phỏng đoán những sự
kiện xẩy ra từ khi vũ trụ mới ra
đời từ vụ nổ Big Bang, cách đây đă
khoảng 14 tỷ năm. Những nhà khoa học của
trường phái chống thuyết Big Bang cho rằng sự
khai sinh vũ trụ qua một vụ nổ ám chỉ
sự can thiệp của một Đấng Sáng tạo
Tối cao nên đối với họ, thuyết Big
Bang có xu hướng thiên về tôn giáo. Bởi v́ theo
Kinh thánh của đạo Thiên Chúa, thế giới muôn
loài đều do Thượng Đế tạo ra chỉ
một lần cho măi măi. C̣n các nhà khoa học của
thuyết Big Bang nhận định là nếu những
hằng số cơ bản trong vũ trụ nguyên thủy,
hiện vẫn được dùng trong ngành vật lư,
chỉ thay đổi đôi chút, th́ quá tŕnh tiến hóa
của vũ trụ có thể đă dẫn đến
một thế giới khác hẳn, có khả năng
không có loài người chúng ta ở trong. Đă có những
nhà thiên văn nêu lên vấn đề, “Ai” đă điều
chỉnh vũ trụ một cách tinh tế như vậy,
nếu không phải là một Đấng Sáng tạo?
Quan niệm này không tương hợp với vũ trụ
quan cuả Đạo Phật, bởi v́ Phật giáo
không yêu cầu có “bàn tay” của Thượng Đế
tạo ra vũ trụ. Trên phương diện khoa học,
hiện nay dường như hầu hết các nhà
thiên văn đều tin vào thuyết Big Bang, v́ thuyết
này giải thích được nhiều hiện tượng
trong vũ trụ.
Ngày xưa ở phương Tây,
người ta coi thế giới của loài người
là duy nhất và nhân loại là độc nhất trong vũ
trụ. Khoa học đă chứng minh quan niệm một
thế giới địa tâm, coi trái đất và con
người là trung tâm vũ trụ là không đúng. Quan
niệm của Phật giáo là có nhiều thế giới,
con người là những tiểu vũ trụ của
một đại vũ trụ trong hằng hà sa số
những đại vũ trụ. Các nhà khoa học cũng
cho rằng, về mặt lư thuyết, trong vũ trụ
có rất nhiều hành tinh trên đó có thể có nhiều
nền văn minh mà các nhà thiên văn trên trái đất chưa phát hiện được.
Tuy nhiên, sự phát hiện những nền văn minh
siêu việt trong vũ trụ là một vấn đề
rất nan giải, bởi v́ khoảng cách của những
hệ sao có khả năng chứa những nền
văn minh đó quá lớn, nên ánh sáng và tín hiệu vô
tuyến phải mất hàng vạn năm mới truyền
tới trái đất.
Nhà bác học
Fermi khi đến thăm Trung tâm Nguyên tử Los Alamos
(bang New Mexico, Hoa Kỳ) và đàm thoại với các nhà vật lư có đặt một
câu hỏi: trong vũ trụ bao la có hằng hà sa số
những hệ sao và hành tinh, hẳn phải có những
nền văn minh siêu việt có khả năng kỹ
thuật đủ cao để đến thăm nhân
loại trên trái đất hay liên lạc với chúng ta
bằng tín hiệu vô tuyến. Nhưng bởi v́
chưa ai nh́n thấy mặt họ và chưa ai bắt
được tín hiệu của họ, thế th́ họ
ở đâu? Sau này, câu hỏi có vẻ ngây thơ cuả
nhà vật lư Fermi được đặt tên là “nghịch
lư Fermi”. Hiện nay, săn t́m trong Ngân hà các hành tinh
tương tự như trái đất, có khả
năng có sự sống, là một đề tài ưa
thích đối với các nhà thiên văn.
Phật giáo quan niệm tất cả
những ǵ trên thế gian này đều vận hành, biến
dịch liên tục và liên hệ
với nhau, không có ǵ là độc lập, không có ǵ là
thực tại. Quan niệm này cũng được
phổ biến trong khoa học. Những nghiên cứu
thiên văn cho rằng mặt trời, trái đất
và các hành tinh đều được sinh ra từ một
đám mây đầy khí và bụi, cách đây 4,6 tỷ năm. Các thiên thể trong vũ
trụ chuyển động không ngừng. Trái đất
quay xung quanh mặt trời với tốc độ
mười vạn kilômét/giờ. Mặt trời, trái
đất và các hành tinh cũng bị lôi cuốn quay
xung quanh tâm của Ngân hà với tốc độ một
triệu kilômet/giờ. Ngân hà cũng đang lùi ra xa các
thiên hà láng giềng với tốc độ hàng chục
vạn kilômet/giờ. Trong vũ trụ, không có ǵ ở
trạng thái tĩnh cả.
Các nhà vật lư quan niệm thành phần
cơ bản nhất của vật chất là những
hạt nhỏ li ti. Những “hạt cơ bản” vi
mô này không nh́n thấy bằng mắt thường và
tràn ngập vũ trụ nguyên thủy. Trên trái đất
chúng xuất hiện trong giây lát trong những máy gia tốc, khi những hạt electron hay proton
va chạm vào nhau với tốc độ cao xấp xỉ
tốc độ ánh sáng. Trong những năm gần
đây, những lư thuyết vật lư đề nghị
trong vũ trụ c̣n có những “dây” vật chất nhỏ
hơn cả hạt cơ bản. Khi dây vũ trụ rung như những dây đàn th́ tạo
ra những loại hạt vật chất khác nhau. Trên
thực thế, đối với phàm nhân th́ những
hạt và dây vật chất chỉ là những vật ảo.
Ta không khỏi không nghĩ tới
khái niệm “vô thường”, “vô ngă” trong đạo Phật,
coi sự vật trên thế gian chỉ là ảo. Những
hiện tượng và sự vật không phải là những
thực thể độc lập, nhưng phụ thuộc
vào nhau theo luật “nhân duyên”. Tuy nhiên, sự
tương đồng giữa Phật giáo và khoa học
phải được hạn chế trong phạm vi
tư tưởng triết học đối với
thế giới tự nhiên. C̣n những kết quả
khoa học liên quan đến vũ trụ phải
được dựa trên những định luật
vật lư và sự quan sát bằng những công cụ
thiên văn hiện đại. Cách tiếp cận những
hiện tượng trong vũ trụ đối với
Phật giáo và khoa học có thể song song với nhau,
nhưng không nhất thiết trùng hợp với nhau.
Khoa học dùng những lư luận duy lư để t́m
chân lư c̣n Phật giáo dùng tư duy đạo đức
và triết học để đạt giác ngộ và
giúp nhân loại diệt khổ. Tuy nhiên, Phật giáo và
khoa học không phải là không tương hợp với
nhau, một Phật tử có thể là một nhà khoa học
chân chính. Nhưng nếu muốn dựa vào khoa học
để giải thích những hiện tượng
siêu h́nh có lẽ là không thực tế.
|