
Giới thiệu Thơ Song NgữThe Bilingual Poetry by Thong Ba Le
I. The Bilingual Poetry
Since the day Vietnam fell under the dictatorship of
Communists, there were more than two millions Vietnamese who were forced to flee
for their freedom to countries around the globe.
The exodus lasted for years and refugees finally settled down in these free
countries, struggling to raise their families with nothing but hope. They hoped
that their children would be able to get a good education so that they could
compete with Americans in the work market.
Most Vietnamese parents tried their best to preserve Vietnamese culture for
their children. They taught them to read, to write and to speak Vietnamese to
one another. The Vietnamese community did a great job in organizing classes to
teach Vietnamese to the children so they would not forget their native
language. On the other hand, due to their demanding situations, sometimes both
parents had to work. If the school systems were too far away, their wishes to
have their children attend Vietnamese classes could not always be achieved.
For the children who were born in Vietnam who could speak Vietnamese before
their parents emigrated, it was much easier to continue to speak their native
language and English was their second language. But for the children who were
born after they arrived in their new countries, it was more difficult if they
lived in areas where there were no Vietnamese or very few people who could
speak Vietnamese. Sooner or later, many of these children forgot their own
language and only communicated to one another in English. The parents, of
course, were not happy about this.
The future skillful young generations of Vietnamese abroad should have
opportunities to develop their cultural spirit, the root deep down inside their
souls and the love of their Motherland across the Pacific Ocean.
The most effective communication has always been the interaction with one
another in a language that all parties could thoroughly comprehend. Therefore,
when authors wanted their readers to enjoy reading their masterpieces or when
participating in any debate or expressing their opinions, they had to write or
speak in appropriate languages. In other words, we had to communicate with the
American in English in order for them to understand us.
Vietnamese poetry had always been a joyful and memorable way to express
one’s feelings. Good Vietnamese poems could make some one smile or wipe away
their teardrops and the Vietnamese-American readers would remember those poems
forever if they could appreciate them in English.
Inspired by the beauty of Vietnamese poems, the author was willing to try
bringing that feeling into American verses so that he could make them available
to his new young generation of Vietnam, who had enjoyed its many successes all
over the world, especially in the United States of America. These young
Vietnamese-Americans, who could either only speak fluent English or a little in
Vietnamese, would be to appreciate these English poems that embraced the
Vietnamese spirit.
The bilingual poems were designed to fulfill the need for conserving the
spiritual patriotic characters inside the young Vietnamese-Americans. But these
poems would not be translated words by word because there was no other language
that could exactly express the feeling, the "inside meaning"
of a Vietnamese verse that had been written from the author’s heart and soul.
The author had been asked many times by his children and his relatives, who
loved poems, the meaning of Vietnamese words that they did not understand. For
example, the meaning of "bể dâu" in a stanza of the
author’s poem could not be translated into English as "the mulberry sea"
or "the mulberry field" because it had a different meaning in
Vietnamese. The English poems were different in their forms, rhymes, rules,
syllabic groups, styles, iambic feet ...etc... from the Vietnamese poetry
"lục bát "and " thất ngôn bát cú
", or " Đường luật "... The
American poets had effectively used the power of English words in their poetry
like the Vietnamese poets had done in theirs. By using the word "stone,"
it created an image of a round shape instead of "rock," that
made readers think of a sharp “uneven shape”, the English poet had chosen the
correct word to describe his feeling in that notable environment. That the
English poems were consistent in their beauty and variety made us appreciate
reading them.
Moreover, the feelings in the English poetry were the same as the feelings
in the Oriental poetry or in the Vietnamese poems. It was not surprising that
the author and his family enjoyed reading all of the poems because they were
all profoundly moving.
The feelings of a Vietnamese poet that were carefully written and described
in both English and Vietnamese poems were also understood and appreciated by
the future leaders of Vietnam, the skillful professional Vietnamese-Americans
abroad.
This is my reachable dream of conserving the patriot spirit in our young
future generations who are now living away from their homeland. With it is my
hope that some day, these young Vietnamese-American people will respond to the
inner voices of the "Spirit of the Motherland" and will follow
their patriotic consciences and go back home, hand in hand to rebuild a free
Vietnam that has been patiently awaiting for the return of her beloved children
when the freedom resumed.
II. Thơ Song Ngữ
Từ ngày đất nước Việt Nam thân yêu
rơi vào tay Cộng sản, vào khoảng hơn hai
triệu người dân Việt Nam tha hương tị
nạn trên các nước Tư do khắp thế giới.
Họ tranh sống qua ngày, gầy dựng gia đ́nh
với giấc mộng con cái ḿnh có một căn bản
học vấn thật vững vàng để có thể
hội nhập vào xă hội mới, tại quốc gia
thứ hai của con cháu ḍng dơi Hồng Lạc.
Hầu hết các đấng làm cha
mẹ đều ước mong giáo dục con cái ḿnh theo
truyền thống Việt Nam, ǵn giữ bảo tồn
văn hóa dân tộc, dạy con viết chữ Việt, nói
chuyện với nhau bằng tiếng Việt. Cộng đồng người
Việt khắp nơi đă hăng say tiếp tay với
các phụ huynh trong việc huấn luyện những
người muốn con cái ḿnh tiếp tục nói
đọc tiếng Việt để không quên tiếng
mẹ đẻ. Tuy nhiên v́
nhu cầu sinh kế cũng như diều kiện học
đường tại các tiểu bang hay quốc gia
định cư, ư nguyện nói trên không được
thỏa măn hoàn toàn 100%.
Đối với những con cái sinh
ra tại Việt Nam trước ngày di tản, đă
biết nói tiếng Việt khi đến tị nạn
tại các quốc gia thứ hai, các trẻ em và thanh
thiếu niên này có lợi điểm nhiều hơn và
dễ dàng trong việc đọc viết và nói tiếng
Việt nếu được tiếp tục giáo dục,
cùng một lúc thâu nhận ngôn ngữ của quốc gia
tị nạn tại các học đường cũng
như tại các nơi các con em đang làm vịệc. Các
thanh thiếu niên Việt Nam sinh ra sau khi cha mẹ
đến các quốc gia tị nạn, nhất là khi cho
mẹ phải đi làm việc hằng ngày hay sinh sống
tại những vùng không có hoặc ít người
đồng huơng cư ngụ, dần hồi nói
tiếng ngoại quốc, phần lớn là Anh ngữ,
nhiều hơn tiếng mẹ đẻ. Đôi khi các em này c̣n không hiểu
tiếng Việt Nam và chỉ nói tiếng Mỹ khi giao
thiệp với nhau mà thôi.
Đây là vấn đề mà không một bậc
phụ huynh người Việt nào mong muốn con ḿnh
như vậy cả.
Những mầm non tưong lai của
đất nước tại hải ngoại cần
phải có cơ hội phát triển tâm hồn Việt
đang tiềm tàng trong họ để có thể tiếp
tục duy tŕ tinh thần yêu mến quê hương ở
phía bên kia bờ biển Thái B́nh Dương. Quan niệm truyền thông hữu
hiệu vẫn là sự truyền đạt và phổ
biến tư tưởng qua văn thơ trong ngôn ngữ
mà người đối diện hay độc giả có
thể thông hiểu hoàn toàn.
Do đó khi tác giả muốn người đọc
thưởng thức các sáng tác phẩm của ḿnh hoặc
chấp nhận tranh luận hay đồng ư với quan
điểm mà tác giả cần phổ biến, họ
phải viết bài của ḿnh bằng ngôn ngữ của
độc giả. Nói một
cách khác, khi muốn nêu lên một vấn đề với
người Mỹ, tác giả phải dung tiếng Anh thay
v́ viết bằng tiếng Việt.
Điều này được áp
dụng trong việc phổ biến tâm t́nh hoặc là ưu
tư, khắc khoải của người đánh mất
quê hương; hay ghi lại vẻ đẹp thiên nhiên,
t́nh yêu trai gái, vợ chồng với tâm hồn Việt Nam
của thi sĩ qua những vần thơ Mỹ. Tác giả ước mong phổ
biến cái hay, cái đẹp đặc biệt của
thơ Việt đến các độc giả trẻ
Việt Nam, đang ngày càng làm rạng rỡ giống ṇi
Hồng Lạc qua những thành công tuyệt vời và
lớn lao trên khắp mọi lănh vực trong cuộc
sống tại quê hương thứ hai.
Với mục đích đó, tác
giả viết bài này không có cao vọng ǵ hơn là
đề nghị làm thơ song ngữ Việt Mỹ
để giúp các độc giả trẻ thông thạo
tiếng Anh nhưng chỉ đọc hiểu chút
đỉnh về Việt ngữ, có thể tiếp
tục thích thú thưởng thức những vần thơ
hay, đẹp, trữ t́nhÖ qua hai ngôn ngữ Anh và Việt.
Đây không phải là thơ dịch
thuần túy từng chữ môt v́ không có bất cứ ngôn
ngữ nào có thể diễn tả trung thực ư thơ,
thể điệu, âm vầnÖ đặc biệt của
thơ Việt Nam mà thi sĩ đă đem hết tâm
huyết sáng tác theo cảm hứng tuyệt vời của
ḿnh. Tâm Việt, thơ Mỹ
là chủ đích của thi sĩ, một đề tài,
một tâm tư sang tác bằng hai ngôn ngữ khác nhau.
Kinh nghiệm bản thân tác giả
đối với con cháu đă trưởng thành,
thường bày tỏ ư thích thưởng thức thơ
Việt của cha, của cậu, của chú bác ḿnh,
nhưng vói khả năng giới hạn thông hiểu
tiếng Việt, các cháu đọc mà chỉ hiểu sơ
sơ, phải hỏi ư nghĩa của những danh từ
dùng trong bài thơ.
Thí dụ nghĩa bóng của chữ “bể dâu” trong một câu thơ
của tác giả. Ai trong chúng
ta cũng biết không thể dùng chữ “mulberry sea”
hay “mulberry field” để giảI thích hai chữ “bể
dâu” trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Tuy nhiên ư thơ rất phong phú trong
thơ Mỹ cũng diễn tả được cảm
xúc và tâm t́nh của thi sĩ.
Tác giả không mấy ngạc nhiên khi đọc thi
phẩm của các thi sĩ người ngoại quốc
này và nhận thấy trong thơ của họ cũng mang
nhiều âm hưởng chung của thơ, kể cả
thơ của người Á Đông, trong đó có thơ
của Việt Nam. Cấu trúc, âm vần, thể luật, thể
điệuÖ tuy khác hẳn với thơ lục bát,
thất ngôn bát cú, thơ ĐườngÖ nhưng thơ (The
Poetry) Âu Châu rất phong phú và thiên h́nh vạn trạng
nếu chúng ta sẵn sàng và cởi mở chấp nhận
vẻ đẹp đặc thù khác lạ của
vườn thơ bạn,
Cách lựa chọn và xửdụng “sức
tác dụng của chữ” (The power of words) một cách
chính xác là động lực chính trong việc sáng tác bài
thơ (The poem) của Âu Châu, cũng tương
tự như cách áp dụng tuyệt vời từ ngữ
trong văn thơ Việt Nam.
Thí dụ, khi thi sĩ Mỹ muốn dùng chữ “ḥn
đá” trong bài thơ, nhà thơ lựa chọn giữa
chữ “stone” hay là “rock”.
Với thanh âm “bằng” của chữ “stone”
kéo dài cho độc giả một ấn tượng tṛn
trịa của ḥn đá viết trong thơ; ngược
lại thanh âm “trắc” của chữ “rock”,
ngắn gọn, tạo cho người đọc một
h́nh ảnh của ḥn đá sắc nhọn, nhiều góc
cạnh, diễn tả tư tưởng trong vần
thơ của tác giả.
Một bài thơ Mỹ c̣n chứa
đựng những nét đặc thù (unique), chi
phối bởi h́nh thức (form), thể thơ (style),
âm điệu (syllabic groups), vần (rhyme),
thi luật (rule), thước (meter), cước
(leg), thi đoạn (stanza), bước (iambic
feet) của một bài thơ MỹÖđặc biệt
là thể thơ 14 ḍng (sonnet) cổ điển,
nổi tiếng từ xưa của vườn thơ Âu
Châu.
Tâm t́nh người thơ Việt Nam
được ghi lại trong sáng tác phẩm viết
với tất cả xúc cảm của tâm hồn,
được thông hiểu bởi những nhân tài
tương lai người Mỹ gốc Việt và ngay
cả những người Hoa kỳ hay người bản
xứ qua bài thơ Anh ngữ cùng chủ đề chứa
đựng một tâm tư và ư nghĩa của bài thơ
viết bằng Việt ngữ.
Đây là giấc mơ có thể thành
tựu với mục đích duy tŕ tấm ḷng Việt trong
tư tưởng của thanh thiếu niên đang sống
xa quê hương, để một ngày nào đó, hy vọng
họ sẽ theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ
quốc, của con tim, của ḷng yêu nước, trở
về đất Mẹ, nối ṿng tay mạnh, xây dựng
lại quê cha đất tổ thân thương đă mong
chờ ngày hồi hương của đàn con Việt tha
phương, khi Tự do tái lập trên quê hương
Việt Nam mến yêu.
III.
Tâm Thơ Việt Mỹ
Hai bài thơ song ngữ sau đây trích trong tập thơ
“Tâm Thơ Việt Mỹ” đă diễn tả ḷng ước
muốn của tác giả về việc thực hiện ư
niệm này:
The two following bilingual poems that were published in my Book of Poetry:
"The Vietnamese American Poetic Spirit" had illustrated the desire of my intention to promote those ideas:
Self Perfection
Buddha taught us that this life is just a temporary one
like a river flowing from its mountain alone
with challenges waiting at every waterfall
and happiness is the peaceful turn for all.
The passengers have chosen their spots on the boat
with luggage are well-prepared and ready to go
The boat captain is only a skillful guide
who steers the boat, the rest is in their minds.
The journey with obstacles and challenges
is waiting ahead for their excellence
to carry out the task or to make a decision
as a coward hiding inside of this vision.
And the voyage will continue with survivors
who reach the river mouth on their arrival,
the finish of their short and complicated life
and the captain returns upstream, again to guide.
Giác Ngộ
Phật day rằng cuộc đời này tạm bợ
Như con sông xuôi đổ từ thượng gịng
Những thử thách là thách lũ ghềnh cong
Và hạnh phúc khi ngước trôi êm ả.
Người quá giang chọn cho ḿnh chỗ đứng
Trên con đ̣ họ sắp sẳn hành trang
Ông lái kia chỉ biết hướng dẩn đàng
Phần sống c̣n tuỳ thuộc kẻ ra đi.
Cuộc hành tŕnh khó khăn nhiều thử thách
Khách sang sông quyết định cho chính ḿnh
Hoặc chiến đấu trường hợp cần hy sinh
Hay co rút trong khoang thuyền chật hẹp.
Vượt giang tŕnh cùng số nguời c̣n lại
Đạt mức đến, điểm cuốI của cuộc đời
Nuớc cuốn đ̣ xuôi ra tận biển khơi
Ông lái về, đưa khách đi chuyến khác./.
*****
The Point Of Light
Above our interior our spirit hides,
inside our faith the Lord shines.
Stay away from the fear of uncertainty.
Stay away from the force of fury.
Human right is always for human race,
people cry because of loosing faith.
From time to time people outline sorrow;
from time to time one defines demeanor.
"Life is short, happiness, a noble pursuit",
said the Sunday minister in the dark suit.
The rich fool takes more and more;
the rich fool wants encore ... encore.
The untouchables would get the point of light.
The unbelieving would only reach the end of life,
so open your mind to holiness,
and your mind will open to righteousness.
The meaning of immortality is not present
but the gift for eternity- mind- existence./.
Chân Lư Như Ánh Sao
Sống nội tâm với tinh thần minh mẫn
Hăy lánh đi vùng hiện hữu cưu mang
Trong niềm tin đấng Tạo hóa tiềm tàng
Rồi mở ḷng đón t́nh yêu tuyệt đối.
Nhân quyền đó ngàn đời vẫn bất diệt
Làm châm ngôn hướng dẫn nhân loại kia
Luôn than van buồn khổ khi chia ĺa
Rồi phấn khởi khi t́nh yêu chợt đến.
Luận chủ đề chân lư như ánh sao
Người Mục sư giảng dạy từ sách thánh
“Đời ngắn ngủi, hạnh phúc là cứu cánh”
Kẻ giàu điên tham vọng khát khao nhiều.
T́m chân lư nguyên cơ và định mệnh
Nhà thông thái siêu phàm đạt chân tâm
Kẻ không tin sống vội trong âm thầm
Nhân gian mở tấm ḷng cho thánh thiện.
Nghĩa vĩnh cữu không phải là hiện tại
Quà tinh thần thực hữu cơi trường sinh./.
(Xem tiếp)
The Sunray On Doorsteps - Giọt Nắng Bên Thềm
Tập Thơ "Tâm Thơ Việt Mỹ"
The Vietnamese American Poetic Spirit
Lê Bá Thông
|