Nguyên tác: The
Power of Now
A Guide to Spiritual
Enlightenment
của
Eckhart Tolle
Dương Gia Phỏng
Dịch
LỜI MỞ ĐẦU
Xuất Xứ Của Cuốn Sách Này
Không mấy khi tôi nghĩ hay nói
đến quá khứ. Nhưng
ở đây tôi muốn kể vắn tắt lại v́ sao
tôi đă viết cuốn sách này và trong hoàn cảnh nào tôi
đă trở thành một đạo sư.
Cho đến năm 30 tuổi, tôi
thường có những tâm trạng bất an và chán
chường. Bây giờ
nghĩ lại, dường như đó là một tiền
kiếp của tôi hoặc cuộc đời của
một người nào khác.
Năm 29 tuổi, một đêm tôi
tỉnh dậy trong ḷng phập phồng lo sợ. Tôi đă
ở trạng thái này nhiều lần rồi, nhưng
lần này sự sợ hăi mạnh hơn trước
nhiều. Bóng tối yên
lặng bao trùm, bóng dáng bàn ghế thấp thoáng trong căn
pḥng tối, văng vẳng từ xa tiếng tầu
hỏa chạy ngang – mọi thứ thật xa lạ,
đáng sợ, và vô nghĩa khiến tôi chán ghét thế
giới này, nhất là cuộc sống của tôi. Tiếp tục sống khổ
sở như thế này để làm ǵ? Tiếp tục vùng vẫy có ích
lợi ǵ? Tôi chỉ muốn
chấm dứt cuộc sống đó ngay tức thời.
“Tôi không thể sống với tôi
được nữa.” Ư
nghĩ này cứ lảng vảng trong đầu. Bỗng
nhiên, tôi thấy ư nghĩ này thật kỳ lạ. Có
một hay hai “tôi”? Nếu tôi không thể
sống với tôi được nữa, tất
nhiên phải có hai “cái tôi”. “Cái tôi” thứ nhất không
thể sống với “cái tôi” thứ hai nữa. Rồi tôi nghĩ : “Có lẽ
chỉ có một “cái tôi” là thực.”
Khi nghĩ đến điều này, tôi choáng váng và
không c̣n suy nghĩ được nữa, nghĩa là ư
thức vẫn c̣n đó nhưng mọi tư tưởng
đă biến mất. Sau
đó, tôi như bị hút vào một khoảng không
đầy năng lượng, lúc đầu rất
chậm rồi cứ nhanh dần. Trong ḷng tôi vô cùng sợ
hăi và toàn thân tôi run lên. Văng vẳng đâu đây từ
trong lồng ngực, có tiếng ai nói :
“ Đừng kháng cự.”
Tôi cảm thấy rơ ràng bị thu hút vào một khoảng
không ở bên trong, không phải bên ngoài. Bỗng nhiên, sợ hăi tiêu tan và
tôi tự để ḿnh rơi vào khoảng không này. Sau đó th́ tôi không c̣n nhớ ǵ
nữa.
Tiếng chim hót ngoài khung cửa đánh
thức tôi dậy. Chưa bao
giờ tôi được nghe một tiếng động
như vậy. Tôi vẫn
nhắm mắt và thấy h́nh ảnh một viên
kim cương quư giá. Đúng
thế, nếu một viên kim cương có thể thốt
ra tiếng th́ tiếng ấy phải như thế này. Mở choàng mắt, tôi thấy
những tia sáng hừng đông len qua rèm cửa. Có rất nhiều ánh sáng, một
loại ánh sáng êm dịu mà tôi ghi nhận chính là t́nh yêu. Nước mắt dâng trào, tôi
đứng dậy và bước quanh căn pḥng. Vẫn là
căn pḥng cũ nhưng bây giờ tôi mới thực
sự thấy nó.
Tất cả đều như mới hiện ra. Tôi cầm từng vật lên,
một cây bút ch́, một cái chai rỗng. Chúng thật đẹp và sống
động.
Hôm ấy, tôi dạo chơi quanh thành
phố, ngạc nhiên thích thú ngắm nh́n phép lạ của
sự sống trên thế gian, tưởng chừng như
ḿnh mới mở mắt chào đời.
Những tháng sau đó, tôi sống trong
một trạng thái an lạc liên tục. Cảm giác này đă trở thành
bản chất tự nhiên của tôi. Tôi vẫn sinh hoạt b́nh
thường và biết rằng có làm ǵ th́ cũng chẳng
thể thêm vào cái ǵ tôi đă có.
Dĩ nhiên, tôi biết rằng một
điều ǵ sâu xa và ư nghĩa lắm đă xẩy ra cho
tôi, nhưng điều này là ǵ th́ thật sự tôi không
hiểu rơ. Phải đợi
nhiều năm sau, khi đă được đọc
nhiều kinh sách và học hỏi với nhiều bậc
thầy, tôi mới hiểu rằng điều mà mọi
người t́m kiếm, tôi đă đạt
được. Tôi hiểu
rằng v́ đă vô cùng đau khổ nên tôi không c̣n
đồng hóa ḿnh với “cái tôi” phiền muộn và
sợ hăi nữa. Bởi v́ tôi đă hoàn toàn rút ra khỏi “cái tôi”
giả đó nên nó đă lập tức suy sụp
như một quả bóng thổi phồng đă bị x́
hơi. C̣n lại là “cái tôi” thật luôn luôn hiện hữu, là ư
thức chân chính vốn có từ trước khi nó
được thể hiện và mang h́nh thể. Rồi tôi tập đi sâu vào cơi giới
bên trong không có thời gian mà trước đây cứ
tưởng là khoảng không rồi an trú ở đấy
với trọn vẹn ư thức.
Tôi bước vào những trạng thái an lạc và
thiêng liêng khó tả hơn trạng thái ban đầu
rất nhiều. Cho đến
lúc tôi không c̣n ǵ ở thế giới này nữa. Không c̣n liên hệ với ai, không
nhà cửa, không việc làm và không có ǵ để xă hội
có thể nhận diện được. Gần hai năm tôi ngồi trên
ghế công viên với một tâm trạng hoàn toàn an lạc.
Kinh nghiệm nào dù đẹp đến
đâu rồi cũng phải chấm dứt. Điều căn bản là tôi
vẫn luôn luôn ở trạng thái vắng lặng này từ
ngày đó. Đôi lúc nó rất
mạnh tưởng như ai cũng có thể cảm
thấy được. Có lúc
nó chỉ hiện hữu xa xa bên ngoài như một khúc
nhạc nền.
Sau này có người đến nói
với tôi : “Tôi muốn có cái mà ông có, hăy chỉ cho tôi
làm sao đạt được cái đó!” Và tôi thường trả lời:
“Bạn đă có nó rồi. V́
tâm bạn quá bận rộn, nên không nhận ra nó thôi.”
Câu trả lời này dần dà phát
triển thành cuốn sách mà bạn đang cầm trên
tay. Bỗng nhiên, tôi mang danh
một đạo sư và trở về với xă hội.
Cuốn sách này là kết quả công tŕnh
của một nhóm người tầm đạo bên Âu và
Bắc Mỹ châu đă cùng tôi đeo đuổi từ 10
năm qua. Tôi thành thật ghi ơn những vị này đă
can đảm tự nguyện thay đổi thâm tâm, đă
đặt nhiều câu hỏi gắt gao và đă vui ḷng nghe
tôi giăi bày. Chắc chắn
nếu không có họ th́ đă không có cuốn sách này. Họ chính là một thiểu
số những kẻ tiền phong về phương
diện tâm linh, những người đă vượt
khỏi những tập quán gây phiền năo cho nhân loại
từ bao năm qua.
Tôi tin rằng cuốn sách này sẽ
tới tay những người đă sẵn sàng muốn
tích cực thay đổi và là xúc tác của sự thay
đổi này. Với
những người chưa nghĩ đến thay
đổi, tôi mong họ sẽ đọc để suy
gẫm. Rất có thể
một ngày nào đó, hạt giống gieo ngày hôm nay khi
họ đọc cuốn sách này sẽ hội nhập
với hạt giống giác ngộ mà mỗi người
đều mang trong ḿnh, để rồi nẩy mầm và
lớn mạnh.
Cuốn sách này bắt nguồn từ
những câu hỏi được đặt ra ở
những buổi họp, những lớp thiền và
những cuộc đàm thoại riêng. V́ vậy, tôi đă
giữ nguyên khuôn khổ vấn đáp. Qua những lớp học này, tôi
đă học hỏi được rất nhiều cùng
với học viên. Nhiều
câu được giữ nguyên vẹn. Có nhiều câu căn bản tôi
đă gom lại từ nhiều câu hỏi gần giống
nhau. Có những câu mới tôi
thêm vào khi viết cuốn sách này. Và sau cùng, cũng có
những câu do ban biên tập đặt thêm để làm
sáng tỏ một vài điểm.
Từ trang đầu đến trang
cuối, những đối thoại nối tiếp nhau
ở hai khía cạnh. Ở
một khía cạnh, độc giả sẽ nhận ra
những điều sai lầm trong ḿnh: sự vô ư thức và lối
xử thế lệch lạc, thể hiện trong những
mối quan hệ giữa những cá nhân, bộ lạc hay
quốc gia. Hiểu
được điều này rất quan trọng v́ nếu
không nhận thức được điều sai lầm
trong ḿnh là sai lầm, là không phải con người
thật của ḿnh th́ sẽ không thay đổi
được lâu dài mà sẽ bị lôi cuốn trở
lại thế giới ảo tưởng để
rồi tiếp tục đau khổ.
Ở khía cạnh khác, tôi muốn
nhấn mạnh rằng tâm con người có khả
năng thay đổi sâu xa, không phải trong tương
lai nào xa vời mà ngay trong lúc này.
Dù bạn là nhân vật nào hay ở đâu, th́ bạn
vẫn có thể từ chối làm nô lệ tư
tưởng để mà giác ngộ.
Những từ tôi dùng trong cuốn sách
này không chỉ để thông tin mà c̣n để đưa
độc giả bước vào một ư thức mới
vượt thời gian và nếm mùi giác ngộ. Cho đến lúc đó, có thể
bạn sẽ thấy nhiều đoạn nhàm chán. Nhưng một khi hiểu
rồi, th́ chúng chứa đựng nhiều năng
lượng tâm linh có thể đem lại cho bạn
nhiều thích thú. Hơn
nữa, v́ mỗi người đều mang trong ḿnh
mầm mống giác ngộ nên tự nhiên sẽ nhận ngay
ra được sự thật.
Khi gập kư hiệu sau đây § sau một số
đoạn văn th́ độc giả nên tạm ngừng
đọc, yên lặng cảm nhận và chiêm nghiệm
điều ḿnh vừa đọc xong.
Thoạt đầu khi mới
đọc cuốn sách này, độc giả sẽ gập
nhiều tiếng khó hiểu, chẳng hạn như hiện
hữu, nhưng xin cứ tiếp tục đọc.
Trong khi đọc, nếu có nghi vấn, xin vẫn tiếp
tục đọc v́ hoặc bạn sẽ t́m ra giải
đáp ở những đoạn kế tiếp hoặc có
thể câu hỏi sẽ trở thành vô nghĩa một khi
bạn hiểu nhiều hơn và đào sâu hơn trong tâm
ḿnh.
Bạn không nên chỉ dùng lư trí mà
đọc cuốn sách này. Hăy
chú tâm cả đến những phản ứng hay xúc
cảm ở bên trong. Nội
dung cuốn sách này, tâm của bạn đă biết
rồi. Tôi chỉ nhắc
lại v́ bạn đă quên. Cái
thấy biết sẽ được khơi dậy và lan
truyền qua khắp mọi tế bào trong cơ thể
bạn.
V́ lư trí luôn luôn muốn phân loại và so
sánh nên để đọc cuốn sách này cho có hiệu
quả và để tránh nhầm lẫn, bạn không nên so
sánh những từ ngữ dùng ở đây với những
từ ngữ dùng trong những giáo lư khác. Ư nghĩa của những danh
từ tôi dùng như: lư trí, hạnh phúc và ư thức không
hẳn tương đương với ư nghĩa của
chúng thường được dùng ở nơi khác. Hơn nữa, bạn không nên
bị vướng mắc trong văn tự. Chúng chỉ là những
bước thang mà bạn sẽ bỏ lại càng sớm
càng tốt.
Đôi khi tôi có nhắc đến
lời Đức Phật hay Đức Giêsu, hoặc trích
vài đoạn từ cuốn “Một
khóa học về những phép mầu nhiệm,” hay từ
những giáo lư khác, không phải để so sánh nhưng
để nhấn mạnh với độc giả
rằng rốt ráo cũng chỉ có một giáo lư nhưng nó
thể hiện dưới nhiều h́nh thức khác nhau.
Một vài tôn giáo cổ xưa, đă khoác bên ngoài nhiều
lớp vỏ rườm rà làm mờ đi bản chất
của chúng. V́ vậy, ư
nghĩa sâu xa đă bị lạc mất và khả năng
biến hóa đă mất hiệu nghiệm. Nhắc đến những giáo lư
đó chỉ để gợi lại thực chất
của chúng và khôi phục lại uy quyền biến hóa. Tôi
muốn nhắn nhủ tín đồ của những tôn
giáo đó rằng : “Bạn không cần phải t́m
đâu xa, để tôi chỉ bạn lối đi sâu vào mà
t́m lại cái ḿnh đă sẵn có.”
Tôi cố gắng dùng những từ
ngữ trung lập cho dễ hiểu. Có thể nói rằng cuốn sách
này được viết cho thế hệ thời nay và
chung cho mọi tín ngưỡng để giải bày
một giáo lư vượt khỏi ư niệm thời gian. Giáo lư này không bắt nguồn
từ bên ngoài mà từ bên trong.
Tôi viết từ kinh nghiệm bản thân nên không có lư
thuyết nào cả. Nếu có
lúc bạn thấy những ǵ tôi viết quá quyết
liệt, chính là v́ tôi muốn xuyên thủng qua những
lớp đối kháng dầy cộm của tư
tưởng để đạt tới đích nằm sâu
bên trong bạn. Ở nơi
này, bạn cũng như tôi đă biết mọi sự
việc rồi. Chỉ
cần có người nhắc lại th́ sự hiểu
biết sẽ trở lại ngay.
Khi ấy, trong bạn sẽ dâng lên một niềm vui
vô tận. Như thể có
người nói : “Đúng rồi, tôi đă nhận ra
sự thật rồi !”
_____________________
Chú thích
của người dịch:
Như tác giả
đă tŕnh bày ở trên, ngôn ngữ không có chân lư nên chúng ta
chỉ dựa vào để nhận ra cái ǵ thực mà
thôi. Chúng ta phải biết
nh́n xuyên qua đó để t́m ra sự thật.
Tuy nhiên, tác giả cũng đă t́m những từ
ngữ hết sức trung lập để tín đồ
của bất luận tôn giáo nào cũng có thể chấp
nhận mà không mang thành kiến.
Trong khi chuyển
dịch cuốn sách này, chúng tôi cố gắng theo sát ư
của tác giả mà dịch theo.
V́ thế để dịch danh từ mind,
chúng tôi đă có lúc dùng danh từ tư tưởng,
có lúc danh từ lư trí và có lúc danh từ tâm,
tùy trường hợp, chứ không bao quát chỉ dùng
một danh từ tâm như thường thấy
trong đạo Phật.
Cũng như thế, danh từ being có lúc
được dịch là hiện hữu,
một danh từ Hán Việt, có lúc là sự sống
khi chúng tôi thấy một danh từ nôm thích hợp
hơn. Sau cùng để
chuyển dịch thành ngữ surrender and let go,
chúng tôi đă dùng một động từ ghép buông
bỏ-chấp nhận để diễn tả
trạng thái hoàn toàn chấp nhận cái đang là
(what is) mà không một chút phản kháng và đồng
thời để nó phơi bầy ra một cách tự
nhiên mà không muốn thay đổi hay vướng mắc
vào.
Một
người hành khất ngồi bên đường đă
30 năm. Một hôm, một
người lạ bước đến hỏi:
- “Này bạn có
dư bạc cắc th́ cho tôi đi,” người hành
khất miệng lẩm bẩm, tay ch́a chiếc nón cũ
kỹ ra.
-
“Tôi chẳng có ǵ để cho ông,” người khách lạ
nói. Rồi ông ta hỏi thêm:
-
“Ông ngồi trên cái ǵ vậy?”
-
“Cái ǵ đâu? Chỉ là một
cái thùng cũ. Tôi dùng nó làm
ghế ngồi từ lâu lắm rồi!”
-
“Có bao giờ ông nh́n bên trong xem có ǵ không?”
-
“Không, để làm ǵ?
Chẳng có ǵ trong đó cả.”
-
“Cứ thử nh́n vào xem sao.”
Người khách lạ nài nỉ.
Người
hành khất cậy nắp thùng ra và bất ngờ t́m
thấy bên trong đầy vàng.
Ông ta vô cùng ngạc nhiên và mừng rỡ.
Tôi
là người khách lạ kia, không có ǵ để cho bạn,
chỉ nhắc bạn nên nh́n vào bên trong, không phải bên
trong cái thùng nào như trong câu chuyện ngụ ngôn, nhưng
ở một nơi gần gũi hơn nữa: đó là bên trong bạn.
H́nh
như tôi nghe bạn phản đối: “Nhưng tôi đâu
phải là kẻ hành khất.”
Những
ai chưa t́m được kho tàng thật của ḿnh –
niềm vui hiện hữu và sự thanh tịnh –
đều là những kẻ hành khất, dù họ có
thật nhiều của cải vật chất. Họ đi t́m những thú vui
vụn vặt từ bên ngoài.
Họ t́m cách thỏa măn dục vọng. Họ t́m những ǵ vun bồi
bản ngă. Họ đi t́m
sự an toàn hoặc t́nh yêu. Trong khi đó họ đă có
cả một kho tàng gồm tất cả những thứ
trên và c̣n nhiều nữa mà thế gian này không dâng hiến
được.
Động
từ giác ngộ gợi ư một hành động phi
thường. Bản ngă con
nguời thường thích đặt ra như vậy. Thật ra, giác ngộ chỉ là
trạng thái tự nhiên khi bạn cảm thấy
đồng nhất với sự sống (hiện
hữu), khi bạn ḥa đồng với một cái ǵ bao
la, vững chắc.
Điều này thật mâu thuẫn v́ cái bao la bền
vững ấy vừa là bạn lại vừa lớn
hơn bạn nhiều.
Bạn giác ngộ khi t́m được thực
chất của ḿnh mà không ngôn ngữ và h́nh thể nào
diễn tả được.
V́ không cảm nhận được sự
đồng nhất này nên bạn có ảo tưởng ḿnh
và thế giới chung quanh tách rời nhau, và ḿnh như
một mảnh vụn cô lập.
Cho nên bạn sợ hăi và cảm thấy có mâu
thuẫn cả bên trong lẫn bên ngoài.
Tôi
rất thích định nghĩa đơn giản của
Đức Phật: giác ngộ, chính là chấm dứt khổ
năo. Định nghĩa
như vậy chẳng có ǵ phi thường và dĩ nhiên c̣n
thiếu sót v́ ta mới chỉ biết giác ngộ qua khía
cạnh tiêu cực tức là diệt khổ. Cái ǵ c̣n lại khi không c̣n khổ
đau? Đức Phật
không bàn ǵ về điều này.
Ngài im lặng có nghĩa là bạn phải tự t́m
hiểu lấy. Đức
Phật đă dùng một định nghĩa tiêu cực
để tư tưởng không thể bám vào đấy
mà tin hoặc vin vào đấy mà biến giác ngộ thành
một hành động phi thường, một mục tiêu
xa vời. Nhiều Phật
tử đă không chú trọng đến điểm này mà
vẫn tin chỉ có Đức Phật mới giác ngộ
được, c̣n họ th́ không, ít nhất cũng không
phải trong kiếp này.
Xin hỏi danh từ “hiện hữu” dùng
ở đây nghĩa là ǵ ?
Hiện hữu là sự sống bất diệt,
thường hằng, thể hiện qua hằng hà sa
số h́nh thể sinh vật phải trải qua luân hồi
sinh tử. Tuy nhiên, hiện
hữu không những đa dạng mà c̣n ở sâu kín trong
mỗi h́nh thể và là bản thể vô h́nh và bất
diệt. Nói nôm na, đó là
thực chất của bạn, “cái tôi” sâu xa mà bạn
có thể nắm được, nhưng không phải
bằng cách dùng tư tưởng.
Đừng cố gắng t́m hiểu sự sống
(hiện hữu), v́ chỉ khi nào tâm thanh tịnh th́ bạn
mới hiểu được.
Khi nào bạn trọn vẹn sống trong giây phút hiện
tại và chú tâm vào đấy th́ sẽ cảm nhận
được. C̣n dùng tâm phàm
th́ sẽ chẳng bao giờ hiểu được. Ư thức được sự
hiện hữu rồi an nghỉ tại đó, thế là
giác ngộ.
Khi đề cập đến
hiện hữu, có phải thầy muốn nói đến
Thượng Đế không? Nếu vậy, sao thầy
không nói rơ ràng ra ?
Danh
từ Thượng
Đế
đă bị lạm dụng từ hàng ngàn năm nay nên không
c̣n ư nghĩa ǵ nữa. Cũng
có đôi khi tôi dùng đến danh từ này, nhưng chỉ
thỉnh thoảng thôi. Khi nói
đến lạm dụng, tôi muốn ám chỉ đến
những người chưa hề được thấy
thế giới thiêng liêng, không gian bao la vô tận, mà lại
dùng danh từ này với một ḷng tin mănh liệt như
thể chính ḿnh biết rất rơ điều ḿnh đang nói
tới. Lại có những
người chống đối lại như thể chính
họ hiểu rất rơ điều họ chối
bỏ. Cho nên mới có
những giáo điều, khẳng định, ảo
tưởng tự cao thật kỳ quái. Chẳng hạn như câu nói:
“Thượng Đế của tôi, Thượng Đế
của chúng tôi mới đích thật là Thượng
Đế. Thượng Đế của bạn chỉ là
giả tạo”. Hoặc câu bất hủ “Thượng
Đế đă chết rồi” của Nietzsche.
Danh
từ Thượng Đế đă trở thành một khái
niệm khép kín. Cứ nói ra th́
người ta đă mường tượng đến
một h́nh ảnh. Có thể
bây giờ không c̣n là h́nh ảnh một ông già râu tóc trắng
xóa nữa, nhưng dù ǵ vẫn là h́nh ảnh một
người thuộc nam giới hay một cái ǵ ở bên
ngoài.
Không
danh từ nào, Thượng Đế hay hiện hữu, có
thể định nghĩa được thực
tại. Cho nên câu hỏi quan
trọng nên đặt ra là dùng những danh từ như
thế th́ giúp hay ngăn trở kinh nghiệm thực
tại mà chúng chỉ đến.
Có thật là chúng chỉ vào thực tại siêu
việt hay lại chỉ gieo thêm vào tâm trí người nghe
một khái niệm để mà tin vào, như một
loại thần tượng trong tâm trí?
Danh
từ hiện hữu cũng như danh từ Thượng Đế
không giải nghĩa được ǵ. Tuy nhiên hiện
hữu có một ưu điểm v́ nó là một khái
niệm mở. V́ nó không thu
hẹp cái vô h́nh vô biên vào một thực thể hữu hạn
nên chúng ta không thể nào tạo được một h́nh
ảnh trong trí óc về hiện hữu. Không ai có thể rêu rao độc
quyền chiếm hữu hiện hữu
được. Hiện
hữu chính là bản chất của con người. Bạn nắm ngay được
nó khi cảm nhận được sự hiện diện
của ḿnh, khi hiểu được “cái tôi” hiện hữu
đă có từ trước khi cái tôi này, cái tôi khác xuất
hiện. Cho nên từ
hiện hữu đến chứng nghiệm trạng thái
hiện hữu chỉ có một bước nhỏ.
Trở ngại lớn nhất
ngăn cản chứng nghiệm thực tại này là
ǵ ?
Một
khi đă tự đồng hóa với tư tưởng th́
chúng cứ tiếp nối nhau không ngừng. Không thể ngừng suy nghĩ là
một phiền năo đáng sợ.
Khổ thay, người ta không ư thức
được như thế v́ hầu hết mọi
người đều mắc phải chứng bệnh này
nên xem nó là một trạng thái b́nh thường. Cái
tiếng động kéo dài không ngừng nghỉ trong trí óc
tạo thành một tấm màn che nên bạn không t́m
được thấy cơi vắng lặng bên trong gắn
liền với hiện hữu.
Đồng thời, nó cũng tạo thành “cái
tôi” giả tạo đưa đến sợ hăi và
đau khổ. Điểm này
sẽ được xét kỹ hơn ở một
đoạn sau.
Triết
gia Descartes tin ḿnh đă t́m ra chân lư khi ông thốt ra câu
bất hủ: “Tôi suy tưởng. Do đó tôi hiện
hữu”. Thật sự, ông
đă phạm phải sai lầm căn bản, tức là
coi tư tưởng ngang hàng với hiện hữu, và cá
tính ngang hàng với tư tưởng. Phần đông chúng ta đều
suy nghĩ không ngừng, sống cô lập trong một
thế giới phức tạp, điên dại đầy
rẫy tranh chấp và vấn đề này kia kia nọ
phản ảnh một sự chia trí liên tục. Giác ngộ là một trạng thái
đầy đủ nên rất an b́nh. Nó ḥa đồng với sự sống
đa dạng, với toàn thế giới, cũng như
với hiện hữu, tức là “cái tôi” không thể hiện
của bạn. Giác ngộ
không phải chỉ là diệt khổ, diệt sự mâu
thuẫn giữa bên trong và bên ngoài, mà c̣n là diệt sự nô
lệ hóa ghê gớm của tư tưởng luôn luôn quay
cuồng. Thật là một
giải thoát vi diệu!
Đồng hóa với tư tưởng
là tạo một bức màn vô minh bằng những khái
niệm, nhăn hiệu, h́nh ảnh, ngôn từ, quan niệm,
định nghĩa, ngăn trở những mối quan
hệ chân thật. Đấy là tấm màn đă gây ra
ảo tưởng chia cách bạn với chính ḿnh, với
những người chung quanh, với thiên nhiên, và với
Thượng Đế để mà bạn quên đi
sự kiện chính là, đằng sau những dị
đồng bên ngoài vạn vật đều là một
với hiện hữu. Nói
đến quên có nghĩa là bạn không c̣n cảm nhận
được, không c̣n chứng nghiệm được
thực tại hiển nhiên của sự đồng
nhất. Tin vào điều này có thể an ủi bạn
nhưng chỉ có chính ḿnh chứng nghiệm mới tự
giải thoát được.
Suy nghĩ đă trở thành một
căn bệnh. Ta mắc
bệnh khi cơ thể mất quân b́nh. Chẳng hạn
b́nh thường tế bào trong cơ thể phân chia
điều ḥa. Nhưng khi
chúng phân chia quá độ, con người sẽ bị
bệnh ung buớu. Cũng
như thế, suy nghĩ là một dụng cụ tuyệt
vời nếu nó được xử dụng đúng cách.
Nhưng nếu dùng sai lạc th́ nó lại gây nên nhiều
tai hại. Nói cho rơ, vấn
đề không phải là bạn không biết suy nghĩ cho
đúng cách mà là bạn thường không suy nghĩ ǵ
cả. Trái lại, chính
những tư tưởng đă đàn áp bạn. Và
chứng bệnh phát ra từ đấy v́ bạn cứ
tưởng ḿnh là những tư tưởng. Thật ra đó chỉ là ảo
tưởng.
Tôi không đồng ư. Như mọi người, tôi có
suy nghĩ vẩn vơ rất nhiều, nhưng tôi vẫn
luôn luôn biết dùng tư tưởng để hoàn tất
công việc.
V́ bạn
giải được một bài toán ô chữ hay chế
tạo được một trái bom nguyên tử không có
nghĩa là bạn biết xử dụng tư
tưởng. Cũng như chó
thích gặm xương, cái tâm thích giải những bài toán
khó. Nhưng chính bạn không
hứng thú những chuyện này.
Thử hỏi bạn có tự ư ḿnh tách rời
khỏi những tư tưởng được không? Bạn đă t́m được
cái nút làm ngưng guồng máy tư tưởng chưa?
Ngừng
hẳn suy nghĩ? Tôi không làm nổi, nếu như có th́
cũng chỉ trong chốc lát thôi.
Nếu vậy th́ chính ḍng tư
tưởng đă dùng bạn rồi. Vô t́nh bạn đồng hóa
với nó nên không biết ḿnh là nô lệ của nó. Giống như người
bị ma ám mà không biết nên cứ tưởng ḿnh là
ma. Khi nào nhận định
được rằng ḿnh ở cương vị chủ
nhân chứ không phải ở cương vị người
khách đến chơi (tức là ḍng tư tưởng) là
bắt đầu tự giải thoát. Hiểu được vậy,
bạn mới có thể bắt đầu quan sát
người khách. Từ lúc
đó, ư thức được đưa lên một b́nh
diện cao hơn. Bạn
sẽ ư thức ngay được một thế giới
trí tuệ bao la bên ngoài tư tưởng trong khi tư
tưởng chỉ là một phần nhỏ của trí
tuệ. Bạn cũng sẽ
ư thức được rằng mọi điều quan trọng
như cái đẹp, t́nh yêu, óc sáng tạo, niềm hân hoan,
sự thanh tịnh, đều phát khởi từ bên ngoài
tư tưởng. Lúc đó
bạn bắt đầu tỉnh ngộ.
Xin hỏi “quan sát kẻ suy
tưởng” nghĩa là ǵ?
Nếu một người đến
nói với bác sĩ của ḿnh:
“Tôi nghe thấy có
tiếng nói trong đầu,” th́ chắc chắn
người đó sẽ được gửi đi
gập một bác sĩ thần kinh để
được chữa trị.
Sự thật là hầu như ai cũng luôn luôn nghe
thấy một hay nhiều tiếng nói trong đầu
ḿnh. Tiến tŕnh không chủ ư
của những tư tưởng mà bạn không biết có
thể làm ngưng lại được là như
thế. Tư tưởng
chỉ là những độc thoại hay đối
thoại vô tận.
Thoảng hoặc ngoài đường
phố bạn đă từng gặp những người
“điên” lẩm bẩm nói với chính ḿnh. Th́ họ cũng không khác bạn
và tất cả các người “b́nh thường” là bao,
chỉ khác là bạn không nói to ra thôi. Tiếng nói trong đầu bàn
luận, suy nghĩ, phán đoán, so sánh, phàn nàn, thương,
ghét, v.v… Tiếng nói không nhất thiết đề cập
đến t́nh cảnh hiện thời của bạn; nó có
thể sống lại quá khứ xa gần, hoặc dự
tính và tưởng tượng những hoàn cảnh
tương lai. Tư
tưởng thường hướng về những
kết cuộc tiêu cực để mà lo lắng. Thỉnh thoảng những
lớp tuồng này có kèm theo h́nh ảnh như một
cuốn phim chiếu trong trí óc.
Ngay cả khi tiếng nói thích ứng với hoàn
cảnh hiện tại, nó cũng sẽ diễn giải
theo chiều hướng đă quen thuộc. Chính v́ tiếng nói xuất phát
từ bộ óc đă có nề nếp của bạn,
tức là do hoàn cảnh riêng của bạn và truyền
thống, tập tục xă hội đào tạo, nên bạn
nh́n và phê phán hiện tại qua đôi mắt của quá
khứ. Do đó kết
quả là một h́nh ảnh sai lạc. Nhiều khi tiếng nói trong
đầu là kẻ thù đáng ghét, luôn luôn đả phá,
trừng phạt và rút tỉa sinh lực của bạn. Nó gây ra không biết bao nhiêu
khổ năo và bệnh tật.
Điều đáng mừng là con
người có thể thoát khỏi uy lực của tư
tưởng. Thế mới
thật là giải thoát. Ngay
từ bây giờ, bạn hăy lắng nghe tiếng nói trong
đầu càng nhiều càng tốt, đặc biệt chú ư
đến những tư tưởng cứ lập đi
lập lại như những đĩa hát nhựa đă
quay trong đầu từ nhiều năm qua. Quan sát kẻ suy tưởng
là
thế. Nói một cách
khác hăy lắng nghe tiếng nói trong đầu bạn và
hiện diện như một chứng nhân.
Khi lắng nghe tiếng nói, th́
đừng nên thiên vị, có nghĩa là đừng nên
chỉ trích hay buộc tội v́ như thế là tiếng
nói đă lại luồn về bằng lối cửa
sau. Rồi bạn sẽ phân
biệt được: Ḱa là tiếng nói, đây là tôi
hiện hữu đang lắng nghe, đang quan
sát. Nhận thức
được sự có mặt của ḿnh không phải là
một tư tưởng mà xuất phát từ một
nơi bên ngoài tư tưởng.
§
Trong khi lắng nghe một tư
tưởng, không những bạn ư thức được
tư tưởng mà đồng thời cũng ư thức
được chứng nhân của tư tưởng,
một sự hiện diện ư thức nằm bên
dưới tư tưởng – “cái tôi” thật của
bạn. Lúc ấy bạn không
c̣n đồng hóa với tư tưởng và tăng
năng lượng cho nó nữa nên tư tưởng
mất dần uy lực rồi lắng xuống nhanh chóng.
Thế là tư tưởng vô ư thức và tự
động bắt đầu ngưng hoạt động;
một b́nh diện mới của ư thức đă xuất
hiện.
Khi một ư nghĩ lắng xuống th́
ḍng tư tưởng bị gián đoạn tạo nên
một khoảng trống không. Thoạt đầu,
những khoảng trống này chỉ kéo dài vài giây, rồi
dần dà sẽ lâu hơn.
Bạn cảm thấy trong ḷng vắng lặng.
Trạng thái đồng nhất với hiện hữu, lúc
trước bị các tư tưởng che lấp, bây
giờ phát hiện. Càng
luyện tập, cảm giác an tịnh càng phát triển cho
đến vô tận. Bạn
cũng sẽ cảm thấy một niềm vui khởi
dậy từ một nơi sâu thẳm; niềm hân hoan
hiện hữu là như thế.
Trạng thái này không phải là trạng
thái xuất thần bởi v́ ư thức c̣n nguyên vẹn. Nếu phải trả giá sự
thanh tịnh bằng cách giảm ư thức và sinh lực th́
mục đích đó thực không đáng theo
đuổi. Ở trạng
thái hiện hữu, con người tỉnh táo và sống
động hơn ở trạng thái ḥa đồng với
tư tưởng. Lúc đó
họ hoàn toàn hiện diện và tần số rung
động của trường năng lượng nuôi
dưỡng cơ thể cũng gia tăng.
Càng đi sâu vào thế giới vô
niệm, như người ta thường gọi ở
các nước phương Đông, th́ càng nhận thức
được trạng thái của chân tâm, càng cảm
nhận được sự hiện diện của chính
ḿnh với một cường độ và một niềm
vui khiến mọi tư tưởng, mọi cảm giác,
ngay cả thân xác của ḿnh và thế giới chung quanh
cũng tương đối không c̣n quan trọng. Tuy vậy trạng thái này không
vị kỷ mà lại hoàn toàn vô ngă. Nó đưa người ta
vượt khỏi “cái tôi” trước kia. Sự hiện diện đó chính
là bạn mà cũng to tát hơn bạn. Những điều tôi nói ở
đây có vẻ mâu thuẫn, nhưng tôi không thể nào
diễn giải khác hơn được.
§
Thay v́ quan sát kẻ suy tưởng,
người ta cũng có thể tạo những khoảng
trống không gián đoạn ḍng tư tưởng bằng
cách chú tâm vào hiện tại.
Hăy ư thức mạnh mẽ giây phút hiện
tại. Hành động
sảng khoái này kéo ư thức ra khỏi tầm hoạt động
của tư tưởng và tạo một khoảng vô
niệm trong đó bạn rất chăm chú, ư thức mà
không suy nghĩ. Cốt tủy
của thiền định là như thế.
Bạn có thể tập thực hành
như trên trong mọi sinh hoạt b́nh thường của
đời sống hàng ngày. Trước đây sinh hoạt
chỉ là phương tiện đưa đến một
cứu cánh th́ nay khi bạn đem hết sự chú ư vào
việc làm, sinh hoạt đă trở thành cứu cánh. Chẳng hạn, mỗi khi lên
xuống cầu thang trong nhà hay nơi sở làm, bạn hăy
để ư đến từng bước, từng
động tác, ngay cả từng hơi thở. Hoàn toàn hiện diện trong sinh hoạt
này. Hoặc khi rửa tay,
bạn hăy chú ư đến mọi cảm giác liên hệ:
tiếng nước chẩy, cảm giác trên da khi
nước chẩy qua tay, động tác của bàn tay, mùi
thơm của xà-bông, v.v...
Hoặc khi bạn ngồi vào xe sau khi đóng cửa,
hăy ngừng lại vài giây và quan sát hơi thở của ḿnh. Hăy ư thức đến một
sự hiện diện, yên lặng nhưng tràn đầy
năng lượng. Bạn có
thể đo lường sự tiến bộ bằng cách
quan sát xem bên trong ḿnh thanh tịnh nhiều hay ít.
§
Giai đoạn chính trong cuộc hành tŕnh
đi đến giác ngộ là tập thôi đồng hóa
với tư tưởng của ḿnh. Mỗi khi tạo được
một khoảng không gián đoạn ḍng tư tưởng
th́ ư thức càng thêm mạnh.
Một ngày nào đó, bạn sẽ
mỉm cười với tiếng nói trong đầu
như mỉm cười nh́n một đứa trẻ
nghịch ngợm. Nghĩa là
lúc đó tư tưởng không c̣n nắm vai tṛ quan trọng
nữa v́ “cái tôi” của bạn không c̣n lệ thuộc nó
nữa.
Giác ngộ
vượt khỏi ḍng tư tưởng
Con
người phải suy nghĩ để tồn tại
trên cơi đời này chứ?
Tư tưởng là một loại
dụng cụ mà ta xử dụng để hoàn tất
một công việc. Công việc xong th́ nên bỏ nó qua
một bên. Hiện nay, tôi
dự đoán có khoảng 80 đến 90 phần trăm
tư tưởng con người đều lập đi
lập lại nên chúng thực vô dụng. Hơn thế nữa, chúng lại
c̣n rất tai hại v́ thường sai lạc và tiêu
cực. Bạn cứ quan sát
tư tưởng của ḿnh th́ thấy ngay. Tư tưởng tự
động làm soi ṃn năng lượng cần thiết
cho sự sống.
Cứ bắt ḿnh suy nghĩ như
vậy thật sự là một thói quen mà tự ḿnh không
ngưng được. Nó
mạnh hơn con người và đem lại một
loại thú vui giả tạo mà sớm muộn ǵ cũng
biến thành phiền năo.
Tại sao con người lại cứ
suy nghĩ măi thế?
V́ họ đồng hóa với tư
tưởng, nghĩa là họ t́m thấy “cái tôi” của ḿnh trong
những hoạt động của chúng, họ tin rằng
ḿnh sẽ không c̣n hiện hữu nếu không c̣n suy
nghĩ. Khi lớn lên bạn đă
vẽ trong trí óc một h́nh ảnh về ḿnh, dựa trên
hoàn cảnh riêng và truyền thống của xă hội. Ta hăy gọi “cái tôi” này là cái
tôi giả (phàm ngă) được tư tưởng
tạo ra và nuôi dưỡng.
Người ta hiểu “cái tôi” theo nhiều cách khác
nhau. Ở đây, tôi muốn
nói rằng cái tôi giả được tạo thành v́
bạn tự đồng hóa với tư tưởng.
Với “cái tôi”, hiện tại gần như không
đáng kể – chỉ có quá khứ và tương lai là quan
trọng. Cho nên ta thấy
dưới h́nh thức “cái tôi” giả, tư tưởng
tác dụng sai lạc và sự thật bị hoàn toàn
đảo lộn. “Cái tôi” chỉ bận lo hồi tưởng quá
khứ, v́ nếu không c̣n quá khứ th́ bạn là ai? Nó
cũng thường phóng ḿnh vào tương lai để
bảo tồn sự sống c̣n và để
được thỏa măn một phần nào. Nó toan tính. “Một ngày nào, khi chuyện này chuyện khác xảy
ra, th́ ḿnh sẽ có hạnh phúc, ḿnh sẽ an thân.” Ngay cả khi “cái tôi” thoảng hoặc có
nghĩ đến hiện tại, th́ nó cũng không
thật sự nh́n thấy hiện tại mà chỉ
biết nh́n qua đôi mắt của quá khứ. Hoặc nó dùng hiện tại
như phương tiện đưa đến cứu
cánh, một cứu cánh bao giờ cũng ở trong
tương lai. Hăy quan sát ḍng
tư tưởng và bạn sẽ thấy nó hoạt
động như thế.
Giây phút hiện tại là ch́a khóa giải
thoát. Nhưng bạn sẽ
chẳng t́m thấy giây phút này nếu c̣n đồng hóa
với ḍng tư tưởng.
Tôi không
muốn mất đi khả năng phân tách và phân
biệt. Tôi rất muốn
học suy nghĩ cho rơ ràng mạch lạc. Biết suy nghĩ là món quà quư
nhất mà con người đă có.
Không có nó, họ không khác ǵ loài thú vật.
Ưu thế của tư tưởng
chỉ là một giai đoạn trên tiến tŕnh của ư
thức. Bây giờ, nhân
loại phải mau chuyển bước sang giai
đoạn kế tiếp, bằng không tư tưởng
sẽ tiêu diệt họ v́ nó đă trở thành một quái
vật. Điểm này sẽ
được bàn thêm ở đoạn sau. Suy nghĩ không phải là có ư
thức. Suy nghĩ
chỉ là một phần nhỏ của ư thức. Không thể có tư tưởng
nếu không có ư thức.
Nhưng ư thức th́ không cần đến tư
tưởng.
Giác ngộ là thoát ra ngoài tư
tưởng, chứ không phải rơi xuống tŕnh
độ thấp hơn tư tưởng, tŕnh độ
của thú vật hay thực vật. Một khi giác ngộ rồi th́
người ta vẫn suy nghĩ khi cần đến,
nhưng một cách tập trung hơn và hữu hiệu
hơn trước. Người ta dùng tư tưởng
cho những mục đích thiết thực, nhưng không
c̣n vướng bận với cuộc đối thoại
vô ư thức và liên tục trong óc nữa. Bên trong là sự an tịnh. Lúc phải dùng tư tưởng,
nhất là khi cần có một giải đáp sáng tạo,
th́ người ta chỉ cần an nghỉ vài phút giữa
tư tưởng và sự thanh tịnh, giữa suy nghĩ
và vô niệm. Vô niệm là ư thức không tư
tưởng. Suy
tưởng sáng tạo là như thế, v́ chỉ bằng
cách đó th́ tư tưởng mới có thực
quyền. Tư tưởng
lạc lơng v́ không được tiếp xúc với ư
thức bao la, sẽ nhanh chóng trở thành khô khan, điên
dại rồi tự hủy hoại.
Ḍng tư tưởng chính thực là
một guồng máy biết tồn tại. Nó biết tấn công những
tư tưởng khác, biết tự bảo vệ,
rất giỏi thu thập, lưu giữ và phân tích tin
tức, nhưng lại không biết sáng tạo. Óc sáng tạo của người
nghệ sĩ thực sự bắt nguồn từ một
nơi vô niệm, một nơi an tịnh. Từ đó, tư tưởng
phát triển và thành h́nh. Ngay
cả những khoa học gia tên tuổi cũng đă
kể rằng những khám phá sáng tạo của họ
đều xẩy ra sau một thời gian khi tư
tưởng lắng xuống. Một cuộc thăm ḍ khắp
nước Mỹ với các nhà toán học uyên bác nhất,
kể cả Einstein, để t́m hiểu lề lối làm
việc của họ đă đưa đến những
kết quả đáng kinh ngạc.
Họ cho biết rằng tư tưởng chỉ
đóng vai tṛ phụ tùy trong giai đoạn quyết
định của hành động sáng tạo. Vậy có thể nói rằng
sở dĩ đa số các khoa học gia không sáng tạo
không phải v́ họ không biết suy nghĩ mà v́ họ
không biết ngừng suy nghĩ!
Không phải nhờ tư tưởng mà
có sự sống trên trái đất, mà cơ thể con
người được cấu tạo và nuôi
dưỡng. Rơ ràng có một
trí tuệ làm việc, một loại trí tuệ bao quát
hơn tư tưởng rất nhiều. Hăy thử nghĩ xem: Làm thế nào mà một tế bào
con người bề ngang chỉ đo được
1/1000 inch lại có thể chứa đựng trong nhân
của nó, những chỉ thị có thể lát đầy
1.000 cuốn sách dầy 600 trang mỗi cuốn? Càng học
về tiến tŕnh hoạt động của cơ
thể, th́ càng nhận thức được rằng trí
tuệ tạo ra nó bao la bát ngát trong khi sự hiểu
biết của con người thật vô cùng nhỏ
nhoi. Khi tư tưởng
tiếp xúc với trí tuệ th́ nó trở thành một
dụng cụ tuyệt vời.
Lúc đó nó phụng sự một cái ǵ lớn hơn
nó rất nhiều.
C̣n cảm xúc
th́ sao? Tôi thường bị vướng mắc trong
cảm xúc nhiều hơn trong tư tưởng.
Tâm trí, theo ư nghĩa tôi dùng danh từ này,
không chỉ thu gọn trong tư tưởng mà gồm
cả cảm xúc và mọi phản ứng không ư thức
gắn liền tư tưởng với cảm xúc. Cảm xúc phát hiện ở giao
điểm của thân vật chất và tư
tưởng. Hoặc nó là cơ thể phản ứng lên
tư tưởng hoặc nó là tư tưởng phản
ảnh trên cơ thể. Thí dụ, một tư
tưởng đả kích hay thù nghịch tạo năng
lượng tích tụ trong cơ thể mà ta gọi là
tức giận. Khi
người ta giận dữ, ư nghĩ cơ thể bị
đe dọa khiến nó co lại và sẵn sàng chiến
đấu. Đó là khía
cạnh vật chất của sự sợ hăi. Khảo sát cho thấy những
cảm xúc mạnh c̣n gây ra cả những biến
đổi sinh hóa học trong cơ thể. Thông thường người ta
không ư thức được mọi ḍng tư tưởng
mà chỉ nhận ra chúng khi quan sát cảm xúc.
Càng đồng hóa với tư
tưởng: thương ghét, khen chê, và phê b́nh chỉ trích,
nghĩa là càng ít hiện diện trong vai kẻ ư thức
quan sát th́ năng lượng của cảm xúc càng mạnh
thêm bấy nhiêu, bất luận người ta có ư thức
được điều này hay không. Nếu không cảm
thụ được những xúc động của ḿnh,
th́ sớm muộn ǵ bạn cũng cảm nhận
được chúng trong cơ thể dưới h́nh
thức những triệu chứng bệnh. Những năm gần đây,
người ta đă viết rất nhiều về vấn
đề này nên tôi không muốn đề cập đến
ở đây nữa. Một cảm xúc vô ư thức mạnh
cũng có thể phát ra dưới dạng một biến
cố bên ngoài xẩy đến cho ḿnh. Chẳng hạn, có những
kẻ trong ḷng mang nhiều oán hận mà không biết và
cũng không diễn tả ra ngoài thường hay bị
những kẻ nóng giận tấn công một cách vô cớ
hoặc bằng lời nói hoặc bằng hành
động. Những
người thuộc loại thứ nhất tỏa
giận dữ ra hẳn bên ngoài.
Một số người khác thu nhận
được những cảm xúc này, liền châm ng̣i cho
chính cơn giận ngấm ngầm của họ bùng
nổ.
Một người không biết cảm
nhận xúc động của ḿnh th́ phải chú ư ngay
đến trường năng lượng trong cơ
thể, nghe ngóng, quan sát để tập cảm nhận.
Vấn đề này sẽ được xét kỹ hơn
ở đoạn sau.
§
Xin hỏi
nếu cảm xúc là tư tưởng phản ảnh lên
thân vật chất th́ tại sao có khi hai bên xung đột
với nhau: chẳng hạn hoặc tư tưởng
bảo không, cảm xúc bảo có, hoặc tư
tưởng bảo có, cảm xúc bảo không?
Nếu thực sự muốn t́m
hiểu ḍng tư tưởng th́ hăy kiểm soát cảm xúc
hay tốt hơn nữa hăy cảm nhận nó trong cơ
thể v́ cơ thể sẽ luôn luôn phản ảnh trung
thực. Nếu có mâu
thuẫn, tư tưởng sẽ nói dối và cơ
thể sẽ nói thật, không phải sự thật
rốt ráo của bản chất con người, nhưng
sự thật tương đối về tâm trạng
bạn lúc bấy giờ.
Những tư tưởng bên ngoài và
tiến tŕnh vô ư thức của ḍng tư tưởng
thường xung đột với nhau. Nhưng ngay dù chưa nhận
thức được hoạt động vô ư thức
của ḍng tư tưởng th́ vẫn có thể nhận
thức được cảm xúc phản ảnh trên thân
xác. Quan sát cảm xúc như
thế cũng giống như quan sát tư tưởng mô
tả ở phần trên.
Chỉ khác là tư tưởng ở trong tâm trong khi
cảm xúc có thể cảm nhận được ở
ngay thân. Bạn có thể
để cảm xúc ở đó mà không bị nó chi
phối. Con người không
phải là cảm xúc mà là kẻ quan sát, sự hiện diện
quan sát. Theo pháp thực hành này
th́ ánh sáng của ư thức sẽ rọi lên mọi sự
vô ư thức bên trong.
Vậy, quan
sát cảm xúc cũng quan trọng như quan sát tư
tưởng sao?
Đúng vậy.
Hăy thường xuyên tự hỏi ḿnh: cái
ǵ đang biến chuyển trong tôi lúc này? Câu hỏi này sẽ đưa
bạn đi đúng đường. Nhưng chỉ nên
theo dơi, đừng nên phân tích.
Hăy hướng hết chú ư vào bên trong và cảm
nhận năng lượng của cảm xúc. Nếu không
cảm được ǵ, th́ nên đào sâu hơn vào
trường năng lượng trong cơ thể. Đó là cánh cửa dẫn vào hiện
hữu.
§
Một cảm xúc thường tiêu
biểu cho một tư tưởng đă được
phóng đại và được tăng thêm năng
lượng. Bạn
thường không đủ hiện diện để quan
sát được cảm xúc v́ chúng chứa quá nhiều
năng lượng nên dễ dàng áp đảo bạn.
Một khi bạn đă bị lôi cuốn rồi đồng
hóa với cảm xúc th́ chúng tạm thời xâm chiếm
bạn. Bạn tin ḿnh là cảm xúc. Một ṿng luẩn quẩn
được dệt quanh tư tưởng và cảm
xúc. Chúng tác động lên nhau
và nuôi dưỡng lẫn nhau.
Ḍng tư tưởng phản chiếu mănh liệt
dưới dạng cảm xúc, đồng thời tần
số rung động của cảm xúc tiếp tục nuôi
dưỡng ḍng tư tưởng.
Khi bạn suy tư về một t́nh cảnh, một
biến cố hay một người đă gây ra cảm
xúc, th́ tư tưởng mang năng lượng
đến cho cảm xúc và ngược lại cảm xúc
mang năng lượng đến cho tư tưởng.
Ṿng luẩn quẩn cứ như thế mà quay măi.
Trên
căn bản, mọi cảm xúc đều bắt
nguồn từ một cảm xúc nguyên thủy khó nhận
ra được. Nó phát sinh
khi người ta mất ư thức về thực chất
của ḿnh, ngoại trừ tên và h́nh dáng. Cảm xúc đó khó nhận ra nên
không t́m được danh từ nào để diễn tả
nó. Danh từ “sợ hăi”
được coi như là gần đúng nhất. Tuy vậy, ngoài cảm giác bị
đe dọa, c̣n có một cảm giác khác sâu sắc hơn
giống như thiếu thốn và bị bỏ rơi. Tốt hơn hết, ta hăy dùng
một danh từ cũng trung tính như cảm xúc kia và
gọi nó là phiền năo.
Một trong những cơ năng chính của ḍng
tư tưởng là tranh đấu để loại
bỏ cảm xúc này. V́ vậy, ta thấy nó hoạt động
không ngừng nhưng vẫn không làm ǵ được
cả mà chỉ có thể tạm thời che dấu
phiền năo thôi. Thật
vậy, càng vùng vẫy để loại bỏ phiền
năo th́ nó càng gia tăng. Ḍng
tư tưởng không bao giờ t́m được
giải đáp v́ chính nó là một phần của vấn
đề. Hăy h́nh dung một
cảnh sát trưởng đi lùng bắt một kẻ gây
hỏa hoạn và tên thủ phạm lại chính là viên
cảnh sát trưởng kia!
Người ta sẽ không thoát khỏi đau khổ
nếu không ngưng đồng hóa cái tôi thật (chân
ngă) với ḍng tư tưởng, tức là cái tôi giả (phàm
ngă). Phải truất phế
tư tưởng th́ hiện hữu mới có cơ
hội thể hiện là bản chất của con
người được.
Tôi
biết bạn sắp hỏi câu ǵ.
Xin hỏi: c̣n những cảm
xúc tích cực như t́nh yêu và hân hoan th́ sao?
Chúng
luôn luôn đi cùng với trạng thái tự nhiên của
bạn tức là cùng với hiện hữu. Mỗi khi có
một khoảng không gián đoạn ḍng tư
tưởng, th́ bạn sẽ thoáng thấy t́nh yêu và an
lạc, hoặc sẽ có những khoảng thời gian
ngắn ngủi thật vắng lặng. Phần đông ít
nhận ra khoảng không này.
Chúng chỉ đến rất t́nh cờ, khi tư
tưởng yên lặng v́ cảnh đẹp, v́ cơ
thể quá mệt mỏi hay v́ bạn đang ở trong
một t́nh cảnh nguy kịch.
Bỗng
nhiên, bên trong thật thanh tịnh.
Trong cái tịnh này, thoáng có an lạc, t́nh yêu và an b́nh.
Những giây phút trên thường rất
ngắn v́ tư tưởng đă vội vă tiếp
tục ồn ào hoạt động. T́nh yêu, an lạc, và an b́nh không
thể tồn tại một khi tư tưởng c̣n
lấn át. Không thể gọi
chúng là cảm xúc được v́ chúng ở rất sâu bên
dưới cảm xúc. Cho nên
phải hoàn toàn ư thức để cảm nhận
được cảm xúc rồi mới có thể cảm
nhận được cái ǵ c̣n ở sâu kín hơn
nữa. Danh từ cảm xúc
dịch từ emotion bắt nguồn từ tiếng la-tinh
emovere có nghĩa là phá rối.
T́nh yêu, an lạc và an b́nh là những khía
cạnh sâu xa của hiện hữu. Chúng không có đối
nghịch v́ phát xuất từ bên ngoài tư
tưởng. Ngược
lại, cảm xúc thuộc về tư tưởng
nhị nguyên nên phải tuân theo định luật
đối nghịch, nghĩa là có tốt th́ phải có
xấu. Ở t́nh trạng
chưa giác ngộ, khi người ta c̣n đồng hóa
với ḍng tư tưởng, cái mà ta thường gọi
lầm là an lạc thật sự chỉ là khía cạnh vui
ngắn hạn của chu kỳ đau khổ/vui
sướng thay phiên nhau. Vui sướng bao giờ cũng
phát sinh từ cái ǵ ở bên ngoài trong khi an lạc bắt
nguồn từ bên trong. Cái ǵ
đem niềm vui đến cho bạn hôm nay th́ nay mai
sẽ đem lại đau khổ.
Hoặc nó rời xa bạn và thiếu vắng nó
bạn sẽ đau khổ.
Loại t́nh cảm gọi là t́nh yêu có thể khích
động và làm người ta vui trong một thời gian,
nhưng nó là một thứ ma túy bám chặt lấy chủ
thể. Nó khiến
người đang yêu cảm thấy thiếu thốn và
luôn luôn đ̣i hỏi phải được thỏa
măn. Trạng thái này có thể
biến chuyển trong chốc lát sang trạng thái
đối nghịch. Sau
buổi ban đầu ngây ngất, biết bao mối t́nh
đă nhanh chóng chuyển yêu thành ghét.
T́nh yêu chân thật không gây đau khổ,
không bỗng chốc chuyển sang hận thù. An lạc
thật sự cũng vậy không thể bỗng chốc
biến thành khổ năo. Như tôi đă tŕnh bầy, ngay
cả trước khi giác ngộ, trước khi thoát
khỏi ḍng tư tưởng, bạn đă có thể thoáng
thấy t́nh yêu thật, đă trải qua trạng thái an
lạc thật, hay một trạng thái an b́nh sâu
đậm, tịnh nhưng vẫn vô cùng sống
động. Những trạng thái này gắn liền
với bản chất của con người mà tư
tưởng thường che lấp. Ngay trong những mối quan
hệ b́nh thường, cũng có những lúc bạn
cảm nhận được cái ǵ chân thật và bất
diệt. Nhưng sẽ
chỉ là những cái nh́n thoáng qua, chợt đến
chợt đi rồi lại bị tư tưởng che
đậy. Lúc ấy, bạn
có cảm giác như đă nắm được cái ǵ
rất quư báu nhưng rồi lại để vuột mất. Hay là tư tưởng sẽ
thuyết phục bạn rằng những trạng thái trên
chỉ là ảo tưởng. Thật sự chúng không là
ảo tưởng và bạn không thể mất chúng
được. Là thành
phần của trạng thái tự nhiên, chúng có thể
bị ḍng tư tưởng che mờ đi nhưng không
hề bị hủy diệt. Ngay khi bầu trời
đầy mây bao phủ, mặt trời vẫn nằm
đó phía sau những đám mây.
Phật
dạy rằng khổ năo phát sinh từ dục
vọng. Muốn diệt
khổ phải cắt đường giây dục vọng.
Người ta có dục vọng là v́
họ nuôi những tư tưởng đi t́m thỏa măn
trong ngoại vật và tương lai để thay thế
niềm an lạc hiện hữu.
Khi “cái tôi” đồng hóa với tư tưởng,
“cái tôi” cũng là ham muốn, là đ̣i hỏi, là
thương, là ghét. Thực ra
không có “cái tôi” nào. Đấy
chỉ là một hạt giống chưa nẩy mầm, một
tiềm lực chưa phát triển. Ngay cả khao khát được
giải thoát hay được giác ngộ cũng chỉ là
ham muốn thỏa măn dục vọng trong tương
lai. Đừng nên t́m cách thoát
khỏi ham muốn, ngay cả ham muốn được
giác ngộ. Hăy chỉ hiện
diện, làm kẻ quan sát tư tưởng. Thay v́ trích lời Phật dạy,
th́ hăy là Phật, là kẻ đă tỉnh thức. Định nghĩa của
tiếng Phật là như thế.
Nhân loại đă quằn quại trong
khổ đau từ ngàn xưa, từ khi rớt khỏi
trạng thái ân phước, rồi ngụp lặn trong
thế giới của thời gian và tư tưởng,
rồi mất đi ư thức hiện hữu. Từ đấy, nhân loại nhận
thấy ḿnh chỉ là những mảnh vụn vô nghĩa
trong một vũ trụ xa lạ, xa rời nhau và xa
hẳn ngọn nguồn.
Bạn không thể tránh được
đau khổ một khi c̣n đồng hóa với tư
tưởng, nghĩa là một khi c̣n vô ư thức trên
phương diện tâm linh.
Tôi muốn đề cập đến cảm xúc
khổ, đầu mối của cái khổ thể xác và
bệnh năo. Phẫn uất,
hận thù, tủi thân, mặc cảm tội lỗi,
tức giận, chán nản, ghen ghét, v.v... ngay cả một
chút khó chịu cũng đều là đau khổ. Mọi vui thú hay cảm xúc cao
độ đều mang trong đó sự đối
nghịch tức mầm mống khổ. Đến đúng ngày đúng
giờ, cái khổ sẽ phải phát hiện.
Những người đă từng dùng
ma túy để được kích thích đều hiểu
rằng sau trạng thái ngây ngất là trạng thái chán
nản. Vui thú sẽ chuyển
hóa thành khổ đau.
Nhiều người đă có kinh nghiệm bản thân
về những mối quan hệ thân mật, nguyên nhân
của hạnh phúc nhưng cũng dễ dàng chuyển thành
nguyên nhân của khổ đau.
Nh́n từ một b́nh diện cao hơn, tích cực và
tiêu cực là hai mặt của một đồng tiền,
hai khía cạnh của khổ năo gắn liền với ư
thức vị kỷ khi nó đồng hóa với tư
tưởng.
Phiền năo của con người
thuộc hai loại: một loại khổ gây ra trong
hiện tại và một loại khổ từ quá khứ
c̣n tồn tại trong tâm khảm.
Làm sao ngừng gây khổ trong hiện tại và làm tiêu
tan cái khổ trong quá khứ?
Đó là điều tôi muốn bàn tới.
Sở dĩ bạn triền miên
sống trong khổ năo là v́ cứ lầm tưởng ḿnh
là những tư tưởng và những cảm xúc mà không ư
thức được thực chất vô h́nh, bất sinh
bất diệt của ḿnh. Để thoát khổ,
bạn chỉ cần hiện diện trọn vẹn trong
hiện tại.
Chướng ngại lớn
nhất ngăn cản bạn hiện diện là sự
sử dụng sai lạc của ḍng tư tưởng liên
tục. Thay v́ ư thức
rằng thực chất của ḿnh thuộc phạm vi bên
ngoài thời gian th́ bạn lại bị vướng
mắc vào “cái tôi giả,” một ảo tưởng
nằm trong thời gian.
Để thoát khỏi sự
kiềm tỏa này, bạn chỉ cần làm kẻ
chứng nhân quan sát ḍng tư tưởng và những
cảm xúc, và không c̣n tưởng lầm ḿnh là chúng
nữa. Có như thế tư
tưởng và cảm xúc mới mất dần năng
lượng mà tan biến đi.
(Đọc Tiếp CHƯƠNG II)
[1]
“A Course in Miracles,” Foundation of Inner
Peace, 1975.