Người Thủy Thủ Già Lê Bá Thông

Sáng hôm đó ông dậy thật sớm, sửa soạn
dụng cụ cho chuyến ra khơi câu cá. Trời còn
nhiều sương mù, phủ kín những cây dừa
đằng sau nhà. Phía xa mù mịt kia là bãi biển, bên tay
mặt là bến tàu đậu, nằm khuất vào trong eo
biển nhỏ. Tàu của ông nằm xen lẫn với
những chiếc tàu to nhỏ khác của những
người hầu hết đã về hưu trí, chỉ
một số ít người hiện nay vẫn còn tiếp
tục đi làm việc ở nơi khác. Họ mua nhà
tại vùng eo biển hẻo lánh này rồi thỉnh
thoảng về đây nghỉ hè, lấy tàu ra biển câu
cá hay thả bước dọc theo bãi biển cát trắng
trong những buổi sáng đẹp trời. Thường
thường họ chỉ đến chơi độ
một hai tuần lễ rồi lại đi. Họ thuê
những người địa phương chăm sóc, tu
bổ nhà cửa và tàu bè của họ trong khi họ đi
vắng. Ðã nhiều lần ông gặp những cặp
vợ chồng trung niên hoặc trẻ hơn trong những
chuyến chuẩn bị ra biển tại bến tàu,
họ rất là vui tính và ông cũng đã gây
được nhiều cảm tình với họ qua
những câu chào hỏi xã giao.
Riêng cá nhân ông cũng đã về hưu được
hơn một năm nay vì ông bị bệnh áp huyết
rất cao, công việc làm càng ngày càng không thích hợp
với ý muốn của ông và nhiều áp lực chi phối
mà Bác sĩ nói là không tốt cho sức khỏe của ông.
Cách đây sáu tháng vợ chồng ông quyết định
dọn về đây để vừa sống gần
biển và vừa gần các con cháu của ông. Hai vợ
chồng nhất định chọn vùng biển này
để sống trong những ngày cuối của cuộc
đời, vì phong cảnh nơi đây giống như bãi
biển ngày xưa ở quê nhà, rất nên thơ và không
nhộn nhịp ồn ào. Nơi này đã gợi lại
trong ông những kỷ niệm êm đềm ngày xưa
cũ lúc ông đang còn phục vụ trong Hải quân. Eo
biển tương đối nhỏ nhưng rất là
thơ mộng với nhiều gành đá và hàng dừa xanh,
chim hải âu lượn quanh tìm mồi trong những
buổi sáng đẹp trời như hôm nay.
Ông ta thích dậy thật sớm để ngắm
mặt trời mọc từ chân trời, như ông đã
từng thích thú nhìn lúc xưa. Nhiều người bạn
cũ khi nghe ông về hưu đã viết thư
đề nghị mời hai vợ chồng qua ở bên
bờ biển phía tây, tại tiểu bang California với
họ. Những người này nói là ở bên đó ấm
hơn, khí hậu điều hòa quanh năm và nhất là có
cảm tưởng như mình được sống
gần quê hương hơn. Ông đã viết thư
trả lời và cám ơn những người này, ông
ta nửa đùa nửa thật nói là ở bên đó đâu
có được ngắm cảnh mặt trời mọc
trên biển khơi, chỉ có nhìn mặt trời lặn mà
thôi. Ông mỉm cười khi nghĩ đến khuôn
mặt của bạn mình lúc đọc thư của ông.
Có lẽ họ sẽ thất vọng nhưng chắc
cũng đồng ý với ông về triết
lý "mặt trời mọc là nguồn sinh lực của
muôn loài, mặt trời lặn là sự chấm dứt
của vạn vật"
Sau bao nhiêu năm chiến đấu và tranh sống trong
vội vã, ông cố tìm một giải đáp cho chính mình
về quan niệm nhân sinh; vận mệnh và cuộc
chiến đã đẩy đưa ông qua bao nhiêu biến
cố thử thách, ảnh hưởng đến cuộc
đời của hai vợ chồng. Cho đến bây
giờ, câu hỏi mà ông tự đặt cho mình và mang theo
mãi suốt gần sáu mươi năm, vẫn chưa có
một câu trả lời để thỏa mãn niềm
thắc mắc khắc khoải của ông.
Nhìn trong gương ông thấy tóc trắng nhiều
hơn đen, nhìn ngày tháng trôi qua như then cửi, như
rong bèo trôi ra biển và thời gian bây giờ chỉ
được ông lơ đãng, không chú trọng;
đếm bằng đơn vị “ngày” thay vì
“giờ”. Tất cả không như bốn
mươi năm tranh sống đã qua. Ông cảm thấy
buồn cho tuổi đời bóng xế. Ông đã cố
tìm lời giải đáp cho mình về nguyên thủy và
nguồn gốc của vạn vật, của loài
người và của chính bản thân ông. Ðôi khi ông bị
ảnh hưởng bởi quan niệm cũ và không thể
nào xóa được sự nhận thức về
định luật tuần hoàn của vũ trụ và Vô
thường lý của đạo Phật. Ý niệm này
đã chi phối và ảnh hưởng cũng như ám
ảnh ông từ hồi ông vừa rời ngưởng
cửa trường trung học để gia nhập vào
Hải Quân. Sau này có một thời gian ông chuyển
hướng suy tư về định mệnh để
an ủi và giải thích cho chính mình, khi đối diện
với những biến cố xảy ra ngoài đời,
hay tìm giải pháp cho những vấn đề quan
trọng có liên quan đến ông. Ðể rồi cho
đến bây giờ, sau khi quyết định tìm cho mình
một môi trường sống trong chuỗi ngày còn
lại, một lần nữa ông muốn để tâm tìm
kiếm câu trả lời về câu hỏi của
đời mình và vẫn chưa đi đến kết
luận chắc chắn, là có phải bây giờ ông đang
trở về với "cái gì" đã tạo ra ông từ
ngày khởi thủy hay không ? Tuy vậy kể từ nay ông
cũng cảm thấy thoải mái và hình như đã
sẵn sàng đón chờ ngày trở về đó, vì tin
tưởng vào lời dự đoán của ông.
Ông vẫy tay gọi con chó già đang ngoắt đuôi
chờ ông tại hàng rào. Nó biết ông sắp sửa đi
ra biển sáng hôm nay. Ông đến gần và mở giây xích
cho nó, xong rồi vào nhà kho lấy dụng cụ, hai
chiếc cần câu và thùng đựng nước đá.
Hôm nay vợ ông ở nhà để may lại mấy
tấm màn cửa sổ và lo nấu một ít thức
ăn chuẩn bị cho cuộc viếng thăm của gia
đình cô con gái vào cuối tuần này. Bình thường thì
bà ấy tháp tùng ông ra biển vì bà cũng rất thích câu cá.
Ông ta hứa là sẽ mang về vài con cá ngon để bà
chưng tương cho cô con gái và gia đình thưởng
thức. Trước khi ông rời nhà bà ta nhắc nhở
ông nhớ uống thuốc áp huyết và cẩn thận,
đừng dùng quá sức sẽ có hại cho sức
khỏe. Ông mỉm cười và thầm nghĩ rằng bà
vợ quá lo xa vì ông đang còn khỏe mạnh lắm mà.
Trên đường từ nhà đến bến tàu, ông
gặp những người láng giềng cũng đang
trên đường đến chiếc tàu của họ.
Khi đến tiệm bán dụng cụ và mồi câu cá, ông
buộc con chó ở ngoài cửa rồi vào trong mua một
bao nước đá và một lọ mồi câu cá, nói vài câu
xã giao với người chủ tiệm gốc
địa phương rồi đi đến chiếc
tàu nhỏ của ông tại bến.
Sương mù tan dần khi ông mở giây và lái tàu ra
khơi. Chiếc phao đánh dấu sơn màu đỏ có
ngọn đèn phía trên, lắc lư theo gợn sóng khi tàu
ông chạy ngang qua. Phía sau phao là một trụ gỗ
lớn sơn màu đen mà trước đây có lẽ
được dùng cho những tàu lớn buột giây vì nó
nằm cao trên mặt nước. Trên cột là một
tổ chim cũ còn lại những cành cây nhỏ và vài
cọng lá rơm bay lưa thưa. Một con chim hải âu
vừa sà cánh đáp để nghỉ chân, chim nhìn chiếc
tàu chạy qua một cách lơ đảng vì chim đã quen
với tàu bè ra vào eo biển này.
Tàu của ông vừa chạy ngang dưới gầm
cầu của của con đường chính của vùng
này. Cầu xây rất cao nên tàu đi ngang qua dễ dàng. Xa
hơn tí nữa là chiếc cầu xe lửa cũng
được xây cao như chiếc cầu này, hai cầu
bắt ngang qua eo biển. Lâu lâu mới có một chuyến
xe lửa chạy qua đây, thường vào những
buổi trưa, tiếng còi tàu và tiếng máy tàu xe lửa
đã nhiều lần gợi lại kỷ niệm quê
hương, làm cho ông nhớ đến những ngày
thức dậy sớm để đi học, khi xe
lửa chạy ngang qua vùng nhà cha mẹ ông và kéo còi đánh
thức mọi người dậy.
Ông liếc nhìn lên hải đồ rồi lái tàu về
phía chiếc phao đánh dấu màu xanh. Qua khỏi cái phao này
là tàu bắt đầu lắc nhè nhẹ. Biển lặng
êm, trời không gió, mùi biển quen thuộc làm ông quên
hết những gì để lại phía sau. Ông vươn
mình để lồng ngực mình nở ra và hít vào thật
mạnh, một luồng khoái cảm đặc biệt
dâng lên, khi làn không khí trong mát hòa lẫn hơi nước
biển tràn vào tận sâu trong người ông. Ông nhắm
mắt lại tận hưởng mùi vị của
biển cả, sự thích thú tuyệt diệu của
những người yêu biển, của những
người say mê biển như say mê người yêu
học trò của tuổi vừa lớn, đang gợi
lại cho ông những chuyến vượt trùng ngày xưa
cũ đã vang bóng một thời. Ông nhìn quanh mình, thật
là mênh mông, tất cả đều là một màu, màu xanh
của biển hòa với màu xanh của bầu trời.
Nếu không có những đám mây hồng lờ lững bay
nơi cuối trời, ông chắc rằng không ai có thể
phân biệt được ranh giới của nước
và trời. Thiên nhiên hiện ra trước mắt như là
một tấm bạt màu xanh được trải dài
không điểm dứt. Những vệt trắng tô
điểm cho tấm thảm trời là những gợn
sóng bạc đầu, như đã được bàn tay
họa sĩ điêu luyện dùng cây bút thần để
làm tăng thêm nét đẹp của vũ trụ. Ông chợt liên tưởng đến vài câu trong bài thơ sáng tác vào năm 1848 của Cecil Francis H. Alexander và rồi tự đọc cho mình nghe:
All things bright and beautiful,
All creatures great and small,
All things wise and wonderful
The Lord God made them all...
Vạn vật tươi sáng mỹ miều,
Muôn loài lớn nhỏ yêu kiều đẹp xinh,
Tuyệt vời sáng lạng thông minh:
Tối cao Thượng đế công trình tạo nên...
Ông lái tàu chạy ra khơi hướng về phía tay mặt,
cách bờ khoảng năm hải lý. Cũng nhờ
đọc báo chí xuất bản địa phương nên
ông đã biết vùng biển nào có loại cá hanh mà ông thích
câu. Cứ mỗi mùa và mỗi con nước là có một
loái cá khác nhau vào kiếm mồi. Mùa này có loại cá hanh
biển màu đen thường vào gần bờ để
kiếm thức ăn, chúng sống dưới những
rong biển trôi dật dờ theo giòng nước ấm
chảy từ phía nam lên đây. Loại cá này thường
lội từng đàn và thích sinh hoạt chung với nhau, do
đó nếu gặp đúng chỗ đàn cá kiếm ăn,
ông có thể câu được đến mức giới
hạn cho phép của địa phương này.
Sở dĩ số cá câu một ngày được
giới hạn, vì loại cá này được bảo
vệ bởi luật pháp để chúng có thể tiếp
tục sinh sản và khỏi bị tuyệt giống. Có
nhiều khi nghĩ về luật lệ của xứ
tự do, ông cảm thấy buồn cho đất
nước mình. Ở bên nhà cũng có luật lệ,
nhiều hơn nữa là đằng khác. Nhưng tất
cả chỉ là thứ luật lệ dùng để
tăng thêm quyền hành của giới lãnh đạo, là
phương tiện để nhà cầm quyền gây thêm
sức mạnh để đàn áp và kiểm soát
người dân vô tội, để rút tỉa xương
máu của những tấm thân gầy còm, đã phải
sống trong thiếu thốn, khổ đau qua năm tháng
mỏi mòn.
Luật pháp ở xứ người dùng để
bảo vệ quyền lợi chung của mọi
người, trong tinh thần tự trọng và tự do.
Hai chữ tự do ở đây không có nghĩa là ai muốn
làm gì cũng được, mà người dân chỉ làm
được những việc gì không xâm phạm
đến quyền tự do của người khác và
những hoạt động không có hại cho Quốc gia.
Mới nghe qua thì có vẻ hơi khó giải thích nhưng
tự nó đã nói lên được ý nghĩa của quan
niệm sống dân chủ và đã được
người dân tôn trọng triệt để với ý chí
tự nguyện.
Ông đã đến vùng nước dự định,
ông tắt máy tàu và để tàu trôi bềnh bồng theo
nhịp sóng nhấp nhô và giòng nước nhẹ. Ông
đánh dấu tàu mình trên hải đồ rồi sửa
soạn thả câu. Con chó già chạy quanh ông, nó đã quen
thuộc với sinh hoạt trên tàu nên cũng không trở
ngại cho việc câu cá của ông. Con chó này đã sống
với ông gần 17 năm rồi, kể từ ngày ông xin
nó từ một gia đình người Mễ khi họ
phải dọn vào sống trong apartment, mà nơi đây không
cho phép nuôi thú vật trong nhà. Ðây là người bạn già
của ông trong chuỗi ngày còn lại vì thế đi
đâu ông cũng dẫn nó đi theo.
Ông móc mồi vào lưởi câu rồi tung giây
cước ra xa, chờ cho mồi lắng xuống tầm
sâu rồi ông kéo giây vào từ từ để xem
hướng của giòng nước. Ông điều
chỉnh mồi, sửa lại quả chì nằm phía trên
lưởi câu cho đúng chỗ, rồi tung giây ra xa về
phía trái của chiếc tàu.
Tiếng nước róc rách vỗ nhẹ vào lườn
tàu nghe thật rõ vì không gian quá im lặng. Thỉnh
thoảng một cơn gió thổi mạnh qua làm mảnh
vải nhỏ cột tại tay lái tàu kêu phần phật.
Mặt trời đã lên cao, khoảng hướng
mười một giờ. Từng tia nắng rọi xuyên
qua vần mây xám tỏa thành một vùng ánh sáng rực
đẹp như vầng hào quang trên đầu của
tượng đức Phật Thích Ca thờ trong những
ngôi chùa. Ông cảm thấy thoải mái trong tâm hồn và
rất vui vì đã quyết định chọn nơi
đây cho những ngày về hưu của cuộc
đời mình. Ông còn nhớ khi vừa mới dọn
về vùng này, giữa những người địa
phương xa lạ, không có một người
đồng hương ở gần nhà. Vợ ông
thường than phiền vì nhớ các con cháu, nhưng sau
đó cũng quen dần, các con thường đem gia
đình về thăm hai vợ chồng vào cuối
tuần, nên bà bắt đầu thích với cảnh
sống mới.
Ông đã tạo được một mảnh
vườn nhỏ, trồng một ít rau muống, rau
thơm và vài cây sả để bà vợ nấu bún bò. Sau
này ông xây một hòn non bộ và một hồ nuôi cá vàng sau vườn,
có nước chảy thường xuyên, qua gành đá
chảy róc rách xuống hồ.
Ban đầu khi mới dọn đến, vợ
chồng người láng giềng có vẻ lạnh lùng
nhưng sau một thời gian, họ đã trở thành
bạn thân. Bà vợ thường làm bánh ngọt đem qua
cho vợ chồng ông và người chồng thỉnh
thoảng vào buổi chiều qua ngồi nhậu bia lai rai
với ông cạnh hồ cá vàng hoặc xem Football với
nhau vào cuối tuần.
Chiếc cần câu bỗng cong xuống, ông ta giật cây
cần lên thật mạnh, một sức nặng vùng
vẫy dưới cánh tay ông, rồi bóng nước
văng tung tóe trên mặt biển. Thấp thoáng dưới
mặt nước là một hình con cá lượn qua
lượn lại cách tàu của ông khoảng bảy
thước.
”Con cá này cũng vào khoảng ít nhất là bảy tám “pounds”.
Ông nhủ thầm rồi vừa từ từ quây
sợi giây câu vào, ông vừa cẩn thận hướng
chiếc cần về phía lái tàu để kéo con cá về
phía đó. Chú cá vừa vùng vẫy vừa lượn quanh
và cố tìm cách để thoát chạy nhưng càng vùng
vẫy chừng nào, càng làm cho lưởi câu bám chặt thêm
vào mang cá và làm cho chú kiệt sức nhanh hơn. Ông cẩn
thận kéo giây vào, vừa giữ cho cần câu theo chiều
của cá lội để lưởi câu khỏi sút ra và
giây cước không bị đứt vì sức kéo của
cá.
Sau gần mười phút tranh đấu giữa cá và
người thủy thủ già, ông cảm thấy thấm
mệt, hai cánh tay ông mỏi nhừ, chú cá vẫn tiếp
tục vùng vẫy. Ông nghĩ đến cô con gái và hai
đứa cháu ngoại trai sắp đến thăm vào
cuối tuần, vui vẻ tăng thêm sức mạnh
của ông. Ðã đến lúc chú cá phải đầu hàng và
phần chiến thắng nghiêng hẳn về người
thủy thủ. Ông với tay lấy sẵn chiếc
vợt lưới rồi kéo giây câu mạnh hơn, chú cá
đã mệt phờ nên không còn hung hăng như
trước nữa và để mặc cho ông kéo vào gần
mạn tàu. Ông dùng tay trái giữ cần câu, còn tay mặt
cầm chiếc vợt xúc chú cá lên bong tàu.
Ông thích thú nhìn con cá nằm thở, đây là một
loại cá hanh biển màu đen giống như loại cá
mà những nhà hàng Tàu thường hấp tương
gừng; thịt loại cá này rất thơm và ngon miệng.
Ông cẩn thận lấy lưởi câu ra khỏi mang cá,
rồi dùng hai tay đưa con cá lên cao để nhìn. Ông
cảm thấy vui như vừa thắng một cuộc
tranh tài và đang đón nhận chiếc cúp giải
thưởng.
Đột nhiên, khi ông nhìn vào đôi mắt đẩm ướt của chú cá hanh, ông cảm thấy chạnh lòng cho con vật đáng thương này. Một cảm nghĩ lạ lùng cùng với niềm thương chợt đến trong tâm hồn người thủy thủ và trong một thóang giây ngắn ngủi, ông nghĩ đến thuyết luân hồi của đạo Phật. Thế rồi, ông không chần chờ gì nữa, người thủy gìa cầm con cá trong hai bàn tay mình và từ từ thả chú cá xuống nước. Ông tiếp tục nhìn theo thân hình con cá nhỏ dần và rồi chìm khuất dưới gìong nước xanh thẩm của đại dương. Ông lấy lọ mồi móc mồi khác vào lưởi câu và
cũng như lần trước tung giây về phía trái
của chiếc tàu, đang tiếp tục trôi bềnh
bồng trên giòng nước nhẹ. Lần này ông dựng
cây cần câu vào cái ống sắt gần cạnh mạn
tàu, rồi ông lấy chiếc bình thủy đựng
nước trà ra, rót vào chiếc tách sành màu trắng có in
hình con phượng hoàng chân cầm hai chiếc mỏ neo.
Ðây là dấu hiệu của Sĩ quan Hải Quân Mỹ.
Phía bên trái của chiếc tách là hai chữ CO - Chỉ Huy
Trưởng - màu vàng óng ánh. Chiếc tách này là quà tặng
của một cậu con trai của ông, một Sĩ quan
Hải Quân Hoa Kỳ đã tốt nghiệp
Hàn lâm viện Hải quân- U.S Naval Academy tại Annapolis,
Maryland- và hiện nay đang phục vụ trên một
Tuần dương hạm-Cruiser (CG)- của Hải quân Hoa
Kỳ.
Trà Thiết Quan Âm tỏa mùi thơm nhè nhẹ, vị trà
hơi đắng và không dịu như trà Tam Hỷ mà cha
của ông thường uống trong những chiếc tách
nhỏ hạt dưa. Khi ông còn nhỏ, cha của ông
thường cho ông thưởng thức trong những
buổi sáng mùa đông gió lạnh mưa nhiều tại
nơi chôn nhau cắt rún. Ông nhắp từng ngụm trà
nhỏ, thưởng thức vị trà đắng dịu
chạy vào cơ thể và cảm thấy lòng nhớ
nhiều về những kỷ niệm xa xưa mà rơm
rớm nước mắt. Ông hay xúc động
trước những hình ảnh, những âm thanh hoặc
tất cả những gì có liên quan đến quá khứ và
quê hương Mẹ. Ðôi lúc ông muốn bỏ tất
cả để trở về thăm quê hương,
nhưng chỉ sợ những đổi thay bên xứ mình
sẽ xóa tan kỷ niệm đẹp trong lòng ông. Thôi thì
cứ giữ lại trong tâm khảm dĩ vãng êm
đềm của thời xưa và hình bóng tuyệt vời
của cố hương, để rồi sẽ mang hình
ảnh đẹp này theo với ông, khi ông nằm xuống
mãi mãi.
Ông đứng dậy kiểm soát lại chiếc
cần câu rồi nhìn về phía bờ thấp thoáng từ
xa. Chiếc tàu của ông đang theo ngọn thủy
triều trôi vào hướng bờ đó, nơi có
người vợ của ông đang chuẩn bị
buổi cơm chiều cho hai vợ chồng. Chung quanh tàu
ông là biển nước, xa hơn tí nữa là chân trời
phía hữu hạm, cao hơn là trời mây với những
đám mây kết lại thành những hình hài quái dị không
tên tuổi. Xa hơn một chút nữa là vũ trụ muôn
trùng, nơi khởi đầu của thế giới và
vạn vật, thành hình sau "Một tiếng nổ
bùng" dữ dội và lớn nhất. Nơi đây
cũng là mức tới của cuối cuộc
đời, của muôn loài, của vạn vật.
Bỗng nhiên ông như vừa tìm ra được
lời giải đáp cho câu hỏi của đời mình,
ông cảm thấy vui sướng vô cùng, ông muốn la
lớn lên, ông muốn nói to lên cho chính mình và cho con chó già,
bạn đời của ông nghe về sự khám phá
tuyệt diệu này. Thì ra cả suốt cuộc
đời ông lăn lộn và tranh đua cũng chỉ là
để chuẩn bị cho một hành trình trở lại
điểm khởi thủy, nơi đã đào tạo ra
mình.
Vũ trụ tạo ra muôn loài, sự thành hình của
thế giới, của vạn vật, của loài
người, chỉ là một sự xoay vần có tính toán.
Thời điểm đầu lại là của sự chấm
dứt trước đó, điểm đích cuối
lại là một sự bắt đầu cho chu kỳ
thứ hai và cứ thế tiếp diễn liên tục không
chấm dứt vì chấm dứt là khởi đầu.
Ông
cảm thấy xúc động mạnh, một tình cảm
lạ lùng đang dâng lên tột cùng trong người ông...
Mặt trời đã đứng bóng, chiếc tàu vẫn
nhấp nhô theo giòng nước trôi về phía bờ xa, gió
biển vẫn nhè nhẹ thổi, mây trắng vẫn
bềnh bồng trôi trên bầu trời xanh và người
thủy thủ già từ từ nhắm mắt lại. Văng vẳng bên tai ông còn nghe đâu đây, tiếng nói
của vị Thống Tướng Douglas MacArthur, vị
Tư Lệnh Tối Cao Lực Lượng đồng
minh Ðông Nam Á nổi tiếng của Hoa kỳ, người
từng đánh bại Quân đội hùng mạnh thiện
chiến của nước Nhật bản tại Thái Bình
Dương, ngăn chận làn sóng đỏ Cộng
sản tại Cao Ly, Sĩ quan xuất thân từ Hàn Lâm
Viện Võ Bị West Point:
”Old Soldiers never died, they just faded away.”
Những Người Lính Già không bao giờ chết, họ chỉ phai mờ đi mà thôi...
Mùa hè năm 2009 Lê Bá Thông 
Trỏ lại từ đầu
|